Giúp các nghị sĩ không bị cản trở khi thực hiện nhiệm vụ
Cụ thể, quyền trên đã được mô tả là: “… một quyền cơ bản mà không có nó các nghị sĩ sẽ bị cản trở trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Nó cho phép họ phát biểu trong Hạ viện mà không bị ức chế, đề cập đến bất kỳ vấn đề nào hoặc bày tỏ bất kỳ ý kiến nào khi thấy phù hợp, nói những gì cần nói để thúc đẩy lợi ích quốc gia và nguyện vọng của các cử tri”.
Đặc quyền này được thể hiện theo nghĩa rộng hơn là quyền miễn trừ đối với các hành động dân sự hoặc hình sự và kiểm tra tố tụng của các thành viên của Hạ viện, cũng như của các nhân chứng và những người khác trong các thủ tục tại Nghị viện… Các nghị sĩ có quyền miễn trừ trong các thủ tục của Nghị viện, chẳng hạn như không bị luận tội hoặc thẩm vấn tại tòa án.
Quyền tự do ngôn luận của các nghị sĩ Canada được bảo vệ bởi Luật Hiến pháp năm 1867 và Luật Nghị viện Canada. Sự tồn tại theo luật định của đặc quyền Nghị viện liên quan đến quyền tự do ngôn luận bắt đầu từ khi Tuyên ngôn nhân quyền của Anh năm 1689 được thông qua. Văn bản này nghiêm cấm các hành động dưới bất kỳ hình thức nào bên ngoài Hạ viện chống lại các nghị sĩ vì những gì họ có thể nói hoặc làm trong Nghị viện. Điều 9 của Tuyên ngôn tuyên bố, “… quyền tự do ngôn luận và các cuộc tranh luận hoặc tố tụng tại Nghị viện không nên bị luận tội hoặc thẩm vấn tại bất kỳ tòa án hoặc địa điểm nào ngoài Nghị viện”.
Được coi là đặc quyền cá nhân nói chung, các tòa án xác nhận rằng quyền tự do ngôn luận cũng là đặc quyền tập thể của Hạ viện. Các kiến nghị do Hạ viện thực hiện được thể hiện chung bởi các thành viên của nó và do đó không thể bị phản đối trước tòa án pháp luật.
Từ rất nhiều phiên tòa mà luật đặc quyền của Nghị viện đã được áp dụng ở Canada, rõ ràng là các tòa án hiểu ý nghĩa của thuật ngữ này và coi nó như một phần của luật pháp xứ sở lá phong.
Sự cần thiết giúp Nghị viện hoạt động hiệu quả
Quyền tự do ngôn luận cho phép các thành viên tự do phát biểu tại các cuộc họp trong Hạ viện hay trong các ủy ban mà vẫn được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn khỏi bị truy tố hoặc trách nhiệm dân sự đối với bất kỳ nhận xét nào mà họ có thể đưa ra. Sự tự do này rất cần thiết cho thực hiện công việc hiệu quả của Hạ viện. Theo đó, các nghị sĩ có thể đưa ra tuyên bố hoặc cáo buộc về các cơ quan hoặc cá nhân bên ngoài trong trường hợp họ thấy ngần ngại đưa ra nếu không có sự bảo vệ của đặc quyền. Mặc dù điều này thường bị chỉ trích, nhưng quyền tự do đưa ra các cáo buộc mà nghị sĩ thực sự tin vào thời điểm đó là đúng, hoặc ít nhất là đáng được điều tra, là điều cơ bản.
Hạ viện không thể hoạt động hiệu quả trừ khi các thành viên của nó có thể phát biểu và chỉ trích mà không cần phải giải trình với bất kỳ cơ quan bên ngoài nào. Sẽ không có tự do ngôn luận nếu mọi thứ phải được chứng minh là đúng sự thật trước khi nó được nói ra. Khi ra trả lời về vấn đề này vào năm 1984, Chủ tịch Hạ viện lúc đó là Cana Bosley khẳng định: “Đặc quyền của một thành viên Quốc hội khi phát biểu trong Hạ viện hoặc trong một ủy ban là tuyệt đối, và sẽ rất khó để tìm ra bất kỳ tuyên bố nào được đưa ra dưới lớp áo choàng đặc quyền của Nghị viện cấu thành sự vi phạm đặc quyền đó”.
Đặc quyền này cũng được mở rộng cho các cá nhân xuất hiện trước Hạ viện hoặc các ủy ban của Hạ viện nhằm khuyến khích việc tiết lộ trung thực và đầy đủ, mà không sợ bị trả thù hoặc đối mặt với các hành động bất lợi khác. Năm 2005, Tòa phúc thẩm Liên bang ra phán quyết rằng, lời khai của các nhân chứng trong Nghị viện thuộc phạm vi đặc quyền của Nghị viện vì nó cần thiết cho hoạt động của Nghị viện bởi ba lý do: “Khuyến khích các nhân chứng nói chuyện cởi mở trước ủy ban của Nghị viện, cho phép ủy ban thực hiện chức năng điều tra của mình và để tránh những phát hiện mâu thuẫn với thực tế ”.
Năm 2007, Tòa án Liên bang một lần nữa khẳng định, lời khai của nhân chứng trước các ủy ban Hạ viện được bảo vệ bởi đặc quyền của Nghị viện. Theo Tòa, mặc dù các nhân chứng trước các ủy ban Nghị viện không phải là thành viên của Nghị viện, nhưng họ cũng không phải là “người lạ” đối với Hạ viện. Thay vào đó, họ là những vị khách được dành đặc quyền của Nghị viện vì cũng như các thành viên, đặc quyền đó là cần thiết để bảo đảm rằng họ có thể nói chuyện cởi mở, không lo sợ lời nói của mình sẽ bị sử dụng chống lại họ trong các thủ tục tố tụng tiếp theo…
Tòa xác nhận rằng đặc quyền của Nghị viện “ngăn cản các thực thể khác giữ các thành viên của Nghị viện hoặc nhân chứng trước các ủy ban chịu trách nhiệm về các tuyên bố được đưa ra khi thực hiện các chức năng của họ trong Hạ viện.
Mặc dù lời khai của nhân chứng trước các ủy ban Nghị viện được bảo vệ bởi đặc quyền của Nghị viện, nhưng những cáo buộc rằng nhân chứng đã nói dối hoặc lừa dối sẽ được xem xét nghiêm túc và có thể bị ủy ban theo dõi. Nếu một Ủy ban xác định rằng nhân chứng đã đưa ra lời khai không trung thực, họ có thể báo cáo vấn đề này với Hạ viện. Chỉ có Hạ viện chịu trách nhiệm quyết định xem nhân chứng có cố tình lừa dối ủy ban và khinh thường Hạ viện hay không, cũng như quyết định hành động trừng phạt thích hợp. Nếu Hạ viện xác định nhân chứng đã nói dối trong khi làm chứng theo lời tuyên thệ, Hạ viện có thể bác bỏ các đặc quyền của mình đối với lời khai và chuyển vấn đề này lên Hoàng gia để xác định xem có đủ bằng chứng để buộc tội nhân chứng tội cố ý nói dối trước một ủy ban Nghị viện hay không.