Đặc quyền quan trọng nhất
Có thể nói, đây là đặc quyền quan trọng nhất được trao cho một nghị sĩ, giúp họ tự do bày tỏ quan điểm và ý kiến của mình mà không phải lo sợ, e ngại điều gì. Mặc dù Hiến pháp Ấn Độ đề cập đến quyền tự do ngôn luận và biểu hiện của mọi công dân trong Điều 19, nhưng đặc quyền này đối với Nghị viện còn được đề cập thêm ở Điều 105.
Cụ thể là các nghị sĩ Ấn Độ có quyền tự do ngôn luận tại Nghị viện và được hưởng quyền miễn trừ khỏi các thủ tục tố tụng tại các tòa án liên quan đến bất kỳ ý kiến phát biểu hoặc bất kỳ phiếu bầu nào được đưa ra trong quá trình hoạt động của Nghị viện hoặc trong các ủy ban Nghị viện. Quyền tự do ngôn luận của các thành viên Nghị viện trên thực tế là điều kiện tiên quyết cần thiết cho việc thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ của họ, bởi trong trường hợp không có đặc quyền đó, họ có thể không dám nói ra suy nghĩ và bày tỏ quan điểm trên Nghị viện. Tầm quan trọng của quyền này được nhấn mạnh bởi quyền miễn trừ được dành cho các thành viên Nghị viện khỏi quá trình tố tụng dân sự hoặc hình sự trước tòa án. Mọi cuộc điều tra bên ngoài Nghị viện về bất cứ điều gì mà một thành viên nói hoặc làm khi thực hiện các nhiệm vụ của Nghị viện sẽ là sự can thiệp thô bạo vào quyền tự do ngôn luận của họ. Do đó, việc tấn công một thành viên Nghị viện hoặc thực hiện, thậm chí đe dọa bằng bất kỳ hành động nào chống lại nghị sĩ trong Nghị viện sẽ bị coi là hành vi vi phạm nghiêm trọng đặc quyền của nghị sĩ.
Điều 105 trong Hiến pháp Ấn Độ trao quyền miễn trừ, cùng với nhiều thứ khác, liên quan đến “bất cứ điều gì đã nói... trong Nghị viện”. Các từ “bất cứ điều gì” tương đương với “mọi thứ”. Hạn chế duy nhất phát sinh từ các từ “trong Nghị viện”, có nghĩa là trong thời gian Nghị viện họp và thực hiện các hoạt động của mình... Một khi đã được chứng minh rằng Nghị viện đang họp và hoạt động, bất cứ điều gì được phát biểu trong quá trình đó sẽ miễn nhiễm với tố tụng tại bất kỳ tòa án nào. Tòa án không có tiếng nói trong vấn đề này và thực sự không nên có.
Những đặc quyền tự do ngôn luận của các thành viên Nghị viện khác với tự do ngôn luận của công dân trong Điều 19. Một luật được đưa ra theo Điều 19 quy định những hạn chế hợp lý đối với quyền tự do ngôn luận của công dân sẽ không giới hạn quyền tự do phát biểu của các thành viên Nghị viện. Họ hoàn toàn được bảo vệ trong hoạt động của Nghị viện, cho dù những phát biểu của họ có thể sai. Tòa án không có thẩm quyền hành động chống lại một thành viên Nghị viện vì bài phát biểu của ông/bà ấy được thực hiện trong Nghị viện, ngay cả khi nó có ý coi thường tòa án.
Không được lạm dụng
Có thể nói, Điều 105 là quy tắc đầy đủ và thuyết phục về đặc quyền tự do ngôn luận của Nghị viện. Bất cứ điều gì nằm ngoài phạm vi của nó, sẽ phải bị Tòa án xử lý theo quy định của pháp luật. Do đó, nếu một thành viên Nghị viện đưa ra câu hỏi mà không được Chủ tịch Nghị viện cho phép và có tính chất phỉ báng, ông/bà ấy sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý trước tòa án theo luật về phỉ báng.
Tuy nhiên, quyền tự do ngôn luận trong Nghị viện bị hạn chế bởi các quy định của Hiến pháp và các quy tắc thủ tục Nghị viện. Khi một thành viên vi phạm bất kỳ quy tắc nào, Chủ tịch Nghị viện được trao nhiều quyền hạn theo các quy tắc để đối phó với tình huống.
Theo quan điểm miễn trừ được trao cho quyền phát biểu và hành động của thành viên trong Nghị viện, việc sử dụng sai mục đích có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các quyền và tự do của những người có thể tìm kiếm sự bảo vệ của tòa án. Do đó, các thành viên Nghị viện, với tư cách là đại diện của cử tri, có nghĩa vụ thực hiện quyền này một cách cẩn thận nhất, không để có bất kỳ phương hại nào đến pháp luật của đất nước. Ủy ban Đặc quyền Ấn Độ nhấn mạnh, thành viên của Nghị viện không được hưởng giấy phép không hạn chế đối với bài phát biểu của mình trong các bức tường của Nghị viện. Ủy ban sẽ quan sát xem nó có trái với các quy tắc tranh luận tại Nghị viện hay không khi một thành viên đưa ra tuyên bố phỉ báng hoặc cáo buộc có tính chất buộc tội chống lại bất kỳ người nào và tệ hơn nếu những cáo buộc như vậy được thực hiện chống lại những người không trong vị trí tự vệ của Nghị viện. Đặc quyền tự do ngôn luận chỉ có thể được bảo đảm, nếu các thành viên không lạm dụng nó.
Theo Ủy ban, mặc dù quyền tự do ngôn luận là một điều quan trọng và cần thiết trong hoạt động của Nghị viện, nhưng khả năng miễn trừ nó cho thấy, việc sử dụng sai có thể gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng. Do đó, mọi tuyên bố trong Nghị viện mà nếu được thực hiện bên ngoài Nghị viện, sẽ không được đặc quyền miễn trừ.