Tiền lương và lương hưu
Nhìn chung, các MEP nhận được mức lương tương đương nhau theo quy chế chung có hiệu lực vào tháng 7.2009.
Mức lương trước thuế hàng tháng của MEP theo quy chế là 8.932,86 euro tính đến ngày 1.7.2019. Tiền lương đến từ ngân sách của Nghị viện và phải chịu thuế EU cũng như đóng góp bảo hiểm, sau đó mức lương là 6.962,95 euro. Các nước thành viên cũng có thể đánh thuế quốc gia đối với khoản lương này. Mức lương cơ bản được quy định là 38,5% mức lương cơ bản của một thẩm phán tại Tòa án Công lý châu Âu.
Tuy nhiên, vẫn có một vài trường hợp ngoại lệ: Các MEP đã nắm giữ nhiệm vụ trong Nghị viện trước cuộc bầu cử năm 2009 có thể chọn giữ nguyên hệ thống quốc gia trước đây về tiền lương, trợ cấp chuyển tiếp và lương hưu.
Đối với lương hưu, theo quy chế, các thành viên cũ được hưởng lương hưu từ tuổi 63. Mức lương hưu bằng 3,5% tiền lương cho mỗi năm thực hiện nhiệm vụ và 1/12 của tiền lương đó cho mỗi tháng tiếp theo, nhưng tổng cộng không vượt quá 70%. Chi phí của các khoản lương hưu này được đáp ứng từ ngân sách của Liên minh châu Âu.
Một chương trình lương hưu bổ sung, được giới thiệu cho các MEP vào năm 1989, đã “đóng cửa” với các thành viên mới từ tháng 7.2009 và đang bị loại bỏ dần.
Các khoản phụ cấp
Giống như các thành viên của Nghị viện quốc gia, các thành viên của EP được nhận khoản phụ cấp nhằm trang trải chi phí khi thực hiện các nhiệm vụ của Nghị viện.
Trước hết, đó là phụ cấp chi tiêu chung. Khoản trợ cấp này nhằm mục đích trang trải chi phí tại cuộc bầu cử ở quốc gia thành viên, chẳng hạn như chi phí quản lý văn phòng của thành viên, phí điện thoại và bưu chính, cũng như việc mua, vận hành và bảo trì thiết bị máy tính và viễn thông… Trợ cấp sẽ bị giảm một nửa trong trường hợp các thành viên không tham dự một nửa số phiên họp toàn thể trong một năm Nghị viện mà không có lý do chính đáng. Số tiền trợ cấp này trong năm 2021 là 4.576 euro mỗi tháng.
Trong phụ cấp chi tiêu chung này có chi phí đi lại. Hầu hết các cuộc họp của EP, chẳng hạn như phiên họp toàn thể, các cuộc họp ủy ban và cuộc họp nhóm chính trị, diễn ra ở Brussels hoặc Strasbourg. Sau khi xuất trình các giấy tờ hỗ trợ hợp lệ, các nghị sĩ được hoàn trả chi phí thực tế của vé đi lại để tham dự các cuộc họp như vậy, tối đa là giá vé máy bay hạng thương gia D (hoặc tương tự), giá vé đường sắt hạng nhất hoặc 0,53 euro cho mỗi kilomet đối với các hành trình đi bằng ô tô (tối đa 1.000km), cộng với các khoản phụ cấp cố định dựa trên khoảng cách và thời gian của hành trình để trang trải các chi phí khác như phí đường cao tốc, phí hành lý quá cước và phí đặt chỗ.
Ngoài chi phí đi lại nói trên, các MEP còn thường được yêu cầu đi lại trong và ngoài quốc gia thành viên mà họ được bầu, để thực hiện nhiệm vụ chính thức của họ và cho các nhiệm vụ khác (ví dụ, để tham dự hội nghị hoặc tham gia một chuyến thăm làm việc).
Đối với các chi phí đi lại khác như để phục vụ các hoạt động bên ngoài quốc gia nghị sĩ được bầu họ có thể được hoàn trả chi phí đi lại, ăn ở và các chi phí liên quan với số tiền tối đa hàng năm là 4.517 euro. Đối với các hoạt động trong quốc gia nghị sĩ được bầu, chỉ chi phí đi lại được hoàn trả, mức tiền tối đa hàng năm được xác định trên cơ sở từng quốc gia.
Bên cạnh các chi phí đi lại, các MEP còn được nhận phụ cấp sinh hoạt mỗi ngày là 324 euro để trang trải tất cả các chi phí khác phải chịu trong thời gian hoạt động của Nghị viện, với điều kiện họ phải chứng minh sự tham dự của mình bằng cách ký vào một trong các sổ đăng ký chính thức được cung cấp cho mục đích đó. Nếu một nghị sĩ không tham gia hơn một nửa số phiếu điểm danh vào các ngày bỏ phiếu trong phiên toàn thể thì khoản phụ cấp sẽ giảm đi một nửa, ngay cả khi họ có mặt. Trong trường hợp các cuộc họp được tổ chức bên ngoài Liên minh châu Âu, phụ cấp là 162 euro (tương tự như vậy tùy thuộc vào việc ký vào sổ đăng ký), với chi phí ăn ở được hoàn trả riêng.
Chưa hết, những người có ghế trong EP đủ điều kiện để được hoàn trả 2/3 chi phí y tế của họ. Ngoài các chi phí kể trên, các thành viên của EP còn được tự do lựa chọn trợ lý của mình trong phạm vi ngân sách do Nghị viện quy định. Các điều khoản và điều kiện liên quan được trình bày trong Chương 5 của Các Biện pháp thực hiện quy chế dành cho thành viên.
Vào năm 2020, số tiền tối đa là 25.442 euro được giành cho mỗi MEP. Các MEP không được nhận khoản tiền này mà nó được trả một phần dưới dạng tiền lương cho những trợ lý đáp ứng các yêu cầu và có hợp đồng hợp lệ, và một phần cho cơ quan thuế thu nhập có liên quan.
Có một số loại trợ lý như sau: Một là, các trợ lý được công nhận làm việc tại Brussels, Luxembourg hoặc Strasbourg được Nghị viện tuyển dụng trực tiếp. MEP có thể tuyển dụng ba trợ lý được công nhận, hoặc trong một số trường hợp nhất định là 4 người. Ít nhất 25% trợ cấp hỗ trợ của Nghị viện được dành cho các trợ lý được công nhận.
Hai là, các trợ lý địa phương hỗ trợ các MEP tại quốc gia thành viên mà họ được bầu. Các hợp đồng cho những trợ lý đó được quản lý bởi các đại lý thanh toán được chấp thuận, nhằm bảo đảm tuân thủ các quy tắc an sinh xã hội và thuế. Trợ lý địa phương có thể có hợp đồng lao động hoặc hợp đồng cung cấp dịch vụ. Ngoài ra, thực tập sinh có thể được cung cấp tại EP hoặc tại quốc gia thành viên, nơi MEP liên quan được bầu.
Tổng chi tiêu cho trợ lý địa phương và thực tập sinh không được vượt quá 75% phụ cấp hỗ trợ của nghị viện. Tuy nhiên, chi cho các nhà cung cấp dịch vụ không được vượt quá 25% phụ cấp. Số tiền tối đa có thể so sánh được đã được thiết lập cho các pháp nhân cung cấp dịch vụ và cho các đại lý thanh toán.
Một số MEP có thể thành lập một nhóm để tuyển dụng một hoặc nhiều trợ lý địa phương hoặc trợ lý được công nhận. Sau đó, họ tự quyết định cách chia sẻ chi phí. MEP không được sử dụng những người thân cận làm trợ lý. Trợ lý của họ không được tham gia vào bất kỳ hoạt động bên ngoài nào có thể dẫn đến xung đột lợi ích. Tên hoặc tên công ty của tất cả các trợ lý được công bố trên trang web của Nghị viện trong suốt thời gian hợp đồng của họ, trừ trường hợp họ có lý do riêng để bảo vệ sự an toàn của bản thân.