Từ năm 1995, Thư viện Quốc hội được chia làm các bộ phận: Phòng Nghiên cứu và phân tích thông tin lập pháp, Phòng Tiếp nhận và xử lý, Phòng Quản lý thông tin công nghệ, Phòng Kế hoạch, ngân sách và kiểm toán và Phòng Tổng hợp. Cơ cấu này thường xuyên được kiện toàn và hoàn thiện nhằm đáp ứng nhu cầu của mỗi thời kỳ.
Phòng Nghiên cứu và Phân tích thông tin lập pháp: Được chia thành 6 nhóm gồm: Các vấn đề chính trị và ngoại giao; Quản lý tư pháp và công chứng; Giáo dục và khoa học; Tài chính và Kinh tế; Thương mại và công nghiệp; Phúc lợi và Môi trường. Mỗi nhóm đều được điều hành bởi một trưởng nhóm. Đội ngũ nhân viên của phòng gồm 23 nghiên cứu viên chuyên nghiệp có trình độ tối thiểu là tiến sĩ trong lĩnh vực có liên quan.
Phòng Tiếp nhận và xử lý: Bao gồm Bộ phận tiếp nhận, Ban biên tập, Ban hợp tác và Liên Quốc hội. Phòng này có nhiệm vụ thu thập và biên tập tài liệu trong nước và hợp tác quốc tế diễn ra.
Phòng dịch vụ tham khảo tài liệu: Cung cấp tài liệu thu thập và phân loại cho người sử dụng, chịu trách nhiệm điều hành phòng đọc và bộ sưu tập của thư viện. Nó bao gồm khu vực lưu thông, khu vực tài liệu không phải là sách, khu vực văn bản pháp lý và thuộc Quốc hội và khu vực dịch vụ thông tin.
Phòng quản lý thông tin công nghệ, kế hoạch tự động hóa: Đây là bộ phận được thiết lập và phân tích để biên tập, lưu giữ và bảo tồn những dạng cơ sở dữ liệu khác nhau. Văn phòng gồm 3 bộ phận: Hệ thống tự động hóa, Hệ thống phân tích, Sản xuất cơ sở dữ liệu.
Tính đến tháng 6.2010, đội ngũ nhân viên chính thức của Thư viện Quốc hội là 290 người, bao gồm các nghiên cứu viên, chuyên gia dịch thuật, cán bộ thư viện, nhân viên hành chính và nhân viên kỹ thuật.
Để bắt kịp sự phát triển của xã hội, xu hướng toàn cầu hóa trên thế giới, Thư viện Quốc hội đã thúc đẩy chương trình đào tạo ngôn ngữ cho các cán bộ và nhân viên của Thư viện. Ngoài ra, Thư viện cũng đưa ra các dự án đào tạo ngoại ngữ và hợp tác đào tạo với các Thư viện đối tác ở nước ngoài. Bên cạnh đó, Thư viện còn yêu cầu một chương trình đào tạo bắt buộc đối với tất cả các cán bộ, viên chức của Thư viện tại Viện Đào tạo Công chức trung ương. Thư viện cũng tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn về thao tác với máy tính, ứng dụng công nghệ thông tin, tổ chức các cuộc hội thảo về đạo đức nghề nghiệp và đạo đức công chức.
Năm 1988, Thư viện Quốc hội chính thức mở cửa cho công chúng; năm 2005 mở rộng giới hạn của người sử dụng là từ 18 tuổi trở lên. Thư viện đóng vai trò như một thư viện quốc gia bên cạnh vai trò là một thư viện Quốc hội và ngày càng nỗ lực hơn trong việc mở rộng phạm vi và giới hạn thông tin của mình. Vì vậy, cơ cấu tổ chức và chức năng của Thư viện Quốc hội cũng có nhiều thay đổi. Để phù hợp hơn với quy mô của thư viện mới, cơ cấu hiện tại của Thư viện gồm 5 bộ phận chính: Phòng Quản lý và Kế hoạch, Phòng Thông tin Quốc hội, Phòng Quản lý thông tin, Phòng dịch vụ thông tin và Trung tâm lưu trữ Quốc hội.
Ngày 24.3, các nghị sĩ và giới chức Liên minh châu Âu (EU) đã đạt được thỏa thuận về một trong những dự luật sâu rộng nhất thế giới nhằm điều chỉnh quyền lực của các công ty công nghệ lớn nhất thế giới. Nó có khả năng định hình lại các cửa hàng ứng dụng, quảng cáo trực tuyến, thương mại điện tử, dịch vụ nhắn tin và các công cụ kỹ thuật số hàng ngày khác.
Trong hành trình phấn đấu đi vào cuộc sống, con đường mà dự luật Thị trường kỹ thuật số của EU đang đi không hề bằng phẳng và gặp phải khá nhiều chông gai…
Sự lây lan của đại dịch Covid-19 đang đe dọa đẩy lùi những tiến bộ mà thế giới đạt được trong những thập kỷ qua liên quan đến bình đẳng giới. Đại dịch đang làm sâu sắc thêm những bất bình đẳng có từ trước, bộc lộ những lỗ hổng trong các hệ thống xã hội, chính trị và kinh tế, từ đó làm khuếch đại các tác động của đại dịch. Trên mọi lĩnh vực, từ y tế đến kinh tế, an ninh đến bảo trợ xã hội, tác động của Covid-19 ngày càng trầm trọng hơn đối với phụ nữ và trẻ em gái. Việc khắc phục tình trạng bất bình đẳng này phải là một phần của quá trình phục hồi để bảo đảm phục hồi được toàn diện.
Bất kỳ chính quyền nào cũng có khả năng triển khai việc lập ngân sách đáp ứng theo giới (GRB) nếu có đủ ý chí, quyết tâm chính trị. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã tổng kết 4 yếu tố là điều kiện tiên quyết để bất kỳ cơ quan công quyền nào cũng có thể thúc đẩy GRB một cách lâu dài và hiệu quả.
Lập ngân sách đáp ứng giới không chỉ là một quy trình kỹ thuật về phân bổ nguồn lực và thiết kế chính sách, mà nó là quy trình nhằm đưa ra một tập hợp các quyết định ở cấp cao nhất về cách thức ưu tiên chi tiêu.
Cho đến trước khi biến thể Delta bùng phát trên thế giới, hầu hết các nước đều muốn đạt được mục tiêu “Zero Covid” (tiêu diệt hoàn toàn Covid-19), dùng các biện pháp phong tỏa, cách ly và đóng cửa nền kinh tế nghiêm ngặt để đối phó với đại dịch. Tuy nhiên, sự xuất hiện liên tiếp của các biến thể chỉ ra một thực tế: Virus Corona sẽ vĩnh viễn không thể bị tiêu diệt và thế giới chỉ có thể chọn “chung sống” với nó. Đây sẽ là hướng tiếp cận tất yếu trong tương lai mà ở đó, các nước sẽ phải học cách kiểm soát các ổ dịch, song song với mục tiêu dỡ bỏ những cản trở đối với hoạt động kinh tế.
Chung sống với dịch bệnh sẽ là hướng đi tất yếu trong tương lai, kinh nghiệm của mỗi nước cho thấy con đường tới đích chung sống cùng Covid-19 hoàn toàn không giống nhau. Lộ trình chung sống phải được cân nhắc tùy thuộc vào tình hình dịch bệnh thực tiễn của mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn cụ thể.
Trong bối cảnh các hoạt động kinh tế chậm lại cùng với tình hình sức khỏe bị đe dọa bởi virus SARS-Cov-2, hàng triệu lao động đang phải đối mặt với tình trạng giáo dục và chăm sóc trẻ em bị gián đoạn, bệnh tật gia đình, mất việc làm và giảm thu nhập kéo dài. Điều này đặc biệt đúng với 2 tỷ lao động tại khu vực phi chính thức, chiếm 61% lực lượng lao động toàn cầu, buộc các quốc gia phải nhanh chóng đưa ra các chính sách trợ giúp.
Vào tháng 4.2020, chỉ một tháng sau khi WHO chính thức tuyên bố Covid-19 là đại dịch toàn cầu, Quốc hội Singapore đã nhanh chóng thông qua Đạo luật Covid-19 Các biện pháp tạm thời (gọi tắt là Đạo luật Covid-19) và có hiệu lực ngay lập tức nhằm bảo vệ các cá nhân và pháp nhân không thể thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng vì đại dịch.
Trong những tháng vừa qua, điều khoản bất khả kháng được các công ty lớn nhỏ viện dẫn trong các vụ kiện tranh chấp hợp đồng ở nhiều quốc gia trên khắp thế giới. Giới luật gia nhận định, cuộc khủng hoảng Covid-19 đang tạo ra sự chú ý đối với điều khoản bất khả kháng và kiểm nghiệm tính ràng buộc của các hợp đồng hơn bất kỳ sự kiện nào khác trước đây.
Pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền của Ấn Độ liên tục được quan tâm điều chỉnh, đổi mới trong bối cảnh cách mạng kỹ thuật số đang thâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế và nhận được sự đón nhận, chào đón của người tiêu dùng.
Còn nhớ tháng 12 năm ngoái, hàng chục tiểu bang ở Mỹ đã khởi kiện chống độc quyền lần thứ ba nhằm vào Google, cáo buộc "ông lớn" này lạm dụng lợi thế về tìm kiếm để loại bỏ cạnh tranh. Thực vậy, sự phát triển của internet và những công nghệ đi kèm đang khiến vấn đề cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền trở nên nóng hơn bao giờ hết. Nhận thức rõ về vấn đề đó, các nhà lập pháp Mỹ luôn tìm cách hoàn thiện và cập nhật hệ thống pháp luật liên quan để theo kịp và phù hợp với thời đại mới.
Dựa vào ý tưởng rằng công nghệ thông tin có thể trở thành một công nghệ chiến lược toàn cầu trong thế kỷ XXI, Chính phủ Nhật Bản đã chủ trương xây dựng một xã hội thông tin có mạng lưới cao với cơ sở hạ tầng tối tân. Tuy nhiên, sự phát triển của công nghệ thông tin trong quản lý dữ liệu cũng đồng thời tạo ra những lỗ hổng trong bảo mật thông tin cá nhân. Trong lịch sử của 20 năm gần đây, Nhật Bản đã phải chứng kiến một số vụ rò rỉ thông tin cá nhân đình đám, thúc đẩy quốc gia này phải ban hành một đạo luật để điều chỉnh lĩnh vực này.
Kể từ khi có hiệu lực năm 2005, Luật Bảo vệ thông tin cá nhân (APPI) của Nhật Bản đã được sửa đổi hai lần. Bản sửa đổi đầu tiên được ban hành vào năm 2015 với những thay đổi có hiệu lực vào năm 2017 và Bản sửa đổi mới nhất được giới thiệu vào tháng 6.2020 và dự kiến có hiệu lực muộn nhất vào tháng 6.2022, sẽ đưa ra những quy định siết chặt hơn nhằm tăng cường bảo vệ thông tin cá nhân cũng như đòi hỏi trách nhiệm cao hơn của các chủ doanh nghiệp sử dụng thông tin.
APPI áp dụng cho tất cả các nhà khai thác kinh doanh xử lý dữ liệu cá nhân ở Nhật Bản. Điều này đề cập đến cả các công ty cung cấp hàng hóa và dịch vụ ở Nhật Bản và có trụ sở trong nước và những công ty có văn phòng bên ngoài nước đó. Do đó, tương tự như GDPR, luật bảo mật của Nhật Bản hiện có phạm vi rộng hơn.
Các bãi rác thải đầy ứ không còn chỗ chứa đang trở thành nỗi nhức nhối của nhiều nước trên thế giới. Điều này khiến cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm quản lý và xử lý rác thải trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu giúp bảo vệ môi trường và phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Theo báo cáo mới đây của Liên Hợp Quốc, lượng rác thải điện tử toàn cầu đã tăng 20% trong 5 năm qua. Trong khi đó, chưa đến 1/5 lượng rác này được tái chế, hầu hết bị đốt hoặc đổ bỏ, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người. Trong bối cảnh đó, Israel đang đặt mục tiêu đẩy mạnh thực thi các quy định về thu gom và tái chế, biến hoạt động trên thành ngành công nghiệp có giá trị.
Theo dữ liệu của Eurostat, trung bình mỗi công dân EU tạo ra 489kg rác thải vào năm 2018, tương ứng với tổng số lượng là 251 triệu tấn. Trong đó, chất thải rắn đô thị chỉ chiếm 10% con số trên. Tuy nhiên, đây là chủ đề mang tính chính trị cao ở EU vì chính quyền địa phương phải chịu trách nhiệm quản lý, thu gom, và là vấn đề nhạy cảm về tài chính vì đòi hỏi các khoản đầu tư công lớn.