Quy định theo hướng chặt chẽ, thận trọng, bao trùm
Việc Quốc hội chính thức thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm hồi tháng 1 vừa qua được hệ thống ngân hàng cũng như giới phân tích rất trông chờ.
Có thể thấy, Luật đã giải quyết về cơ bản các khó khăn, vướng mắc hiện tại, kiến tạo cho một số hoạt động mới và đồng bộ hóa với các bộ luật khác đã có hay vừa ban hành.
Các quy định sửa đổi theo hướng chặt chẽ, thận trọng và bao trùm hơn, vừa góp phần khắc phục những bất cập, vướng mắc hiện tại (như sở hữu chéo, thao túng hoạt động ngân hàng, luật hóa Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu…); vừa kiến tạo phát triển một số hoạt động mới (như ngân hàng số, giao dịch điện tử, ngân hàng đại lý…).
Đến nay, cùng với Luật này, Quốc hội cũng đã thông qua các Luật Giao dịch điện tử, Luật Giá, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản sửa đổi đã tạo sự đồng bộ, nhất quán hóa thể chế kinh tế, qua đó tạo nền tảng cho nền kinh tế tiếp tục phát triển.
Tăng tính minh bạch cho hoạt động của ngân hàng
Chúng tôi cho rằng, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) sẽ có tác động đối với hệ thống ngân hàng ở 6 điểm sau.
Thứ nhất,Luật quy định cổ đông nắm giữ hơn 1% cổ phần phải cung cấp các thông tin sau đây cho ngân hàng: Tên; số căn cước/ID; thông tin hộ chiếu; giấy tờ đăng ký kinh doanh. Thông tin về người có liên quan cũng phải được công bố. Định nghĩa về "người có liên quan" đã được mở rộng để bao gồm nhiều tầng và mối quan hệ gián tiếp hơn, ví dụ như chú, cô; con của chú, cô; chi nhánh của chi nhánh của ngân hàng. Cổ đông và người có liên quan của họ cũng phải tiết lộ tổng số cổ phần mà họ sở hữu.
Những yêu cầu này nhằm mục đích tăng cường sự minh bạch và đầy đủ thông tin. Bằng cách yêu cầu các thông tin chi tiết về cổ đông và người liên quan của họ, ngân hàng sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về cấu trúc sở hữu và mối quan hệ liên quan, đồng thời giảm thiểu rủi ro liên quan đến việc giấu thông tin. Cùng với sửa đổi về thông tin người liên quan và tiết lộ số cổ phần mà họ sở hữu, điều này nhằm mục đích ngăn chặn một hoặc một số cổ đông lớn sở hữu quá nhiều cổ phần của một ngân hàng, từ đó họ có thể kiểm soát ngân hàng.
Thứ hai, giảm giới hạn về sở hữu của một ngân hàng, như: Một cá nhân có thể sở hữu tối đa 5% cổ phần của một ngân hàng (không thay đổi so với luật cũ). Một tổ chức có thể sở hữu tối đa 10% cổ phần của một ngân hàng (so với 15% trước đây). Một nhóm cổ đông và các bên liên quan có thể sở hữu tối đa 15% cổ phần của một ngân hàng (so với 20% trước đây). Một cổ đông lớn của một ngân hàng và những người có liên quan của anh/chị có thể sở hữu tối đa 5% cổ phần của một ngân hàng khác (điều mới so với luật cũ). Các tỷ lệ này cũng bao gồm sở hữu gián tiếp.
Quy định về tỷ lệ sở hữu tối đa của một cổ đông và một nhóm cổ đông liên quan tại một ngân hàng sẽ giúp hạn chế phần nào tình trạng thao túng, chi phối như tại SCB trong thời gian vừa qua.
Thực tế, các tỷ lệ giới hạn sở hữu hiện nay tại Việt Nam đã thấp so với nhiều quốc gia khác. Một tỷ lệ sở hữu thực tế là 15 – 20 - 25% bởi một cổ đông hoặc các bên liên quan không thể dẫn đến việc thực sự kiểm soát ngân hàng. Điều này có thể tạo ra rào cản để thu hút nhà đầu tư chiến lược nước ngoài vì tỷ lệ sở hữu không đủ lớn để tạo ra tác động ý nghĩa đối với ngân hàng.
Cổ đông hiện tại (với tỷ lệ sở hữu vượt quá giới hạn mới) không cần phải điều chỉnh xuống, họ có thể duy trì cổ phần hiện tại của mình nhưng không được phép tham gia mua thêm cổ phiếu mới (để tỷ lệ sở hữu của họ sẽ được điều chỉnh giảm dần theo thời gian). Họ vẫn có thể nhận cổ tức bằng cổ phiếu.
Hạn chế tình trạng “sân sau”
Thứ ba, quy định nghiêm ngặt về giới hạn cho vay. Theo đó, ngân hàng không được phép cấp vay cho các thành viên Hội đồng quản trị (BoD), Ban quản lý (BoM), Giám đốc điều hành/Phó giám đốc điều hành hoặc các vị trí liên quan… Bố mẹ/con cái của họ (không thay đổi) và anh/em ruột (điều chỉnh). Các hạn chế về việc cho vay khác được duy trì từ luật cũ. Đây là sửa đổi tích cực, nhằm giảm cho vay đối với các bên liên quan và rủi ro tập trung tín dụng.
Luật cũng quy định về giới hạn việc cho vay. Theo đó, ngân hàng có thể cấp vay cho Kiểm toán viên/Kiểm tra viên/Kế toán trưởng/Chủ tịch Hội đồng quản trị/Cổ đông lớn hoặc cổ đông sáng lập/Các công ty sở hữu trên 10% cho các cá nhân nêu trong mục vừa nêu trên với giá trị không quá 5% vốn của ngân hàng (không thay đổi); cho vay đối với một công ty liên kết/công ty con của ngân hàng được giữ nguyên ở mức tối đa 10% vốn của ngân hàng (không thay đổi), và đối với tất cả các công ty liên kết/công ty con kết hợp được giữ ở mức tối đa 15% (giảm từ 20% trước đây).
Quy định này giúp các bên liên quan có đủ thời gian để điều chỉnh. Ngân hàng/người vay có thể chuyển sang việc tài trợ hợp tác cho các dự án lớn sau thời kỳ đó. Các ngân hàng lớn (ngân hàng có vốn sở hữu nhà nước) vẫn có thể được phép cho vay vượt quá những giới hạn này trong một số trường hợp (như họ đã làm cho đến nay). Đồng thời quy định này sẽ hạn chế hiện tượng các doanh nghiệp dùng ngân hàng sân sau làm kênh cấp vốn (như tại SCB).
Can thiệp sớm để tránh rủi ro
Thứ tư, can thiệp vào ngân hàng. Những ngân hàng có lỗ tích lũy vượt quá 15% so với vốn điều lệ của mình/tỷ lệ CAR (tỷ lệ an toàn vốn) giảm xuống dưới ngưỡng quy định trong vòng 6 tháng liên tục/đối mặt với tình trạng rút tiền lớn sẽ được đưa vào giai đoạn can thiệp sớm. Trong giai đoạn này, ngân hàng phải tự giải quyết vấn đề của mình. Những ngân hàng không thể khắc phục và hồi phục dưới giai đoạn can thiệp sớm/đối mặt với tình trạng rút tiền đe dọa rủi ro hệ thống/tỷ lệ CAR giảm xuống dưới 4% trong vòng 6 tháng liên tục... sẽ được đưa vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Luật quy định điều này sẽ giúp cơ quan quản lý đưa ra được mức cảnh báo đối với các tổ chức tín dụng yếu kém; là cơ sở để cơ quan quản lý đưa ra hành động sớm nhằm ngăn rủi ro lan truyền trong hệ thống. Việc không sử dụng nguồn lực của Chính phủ hoặc sử dụng nguồn lực của các ngân hàng khác là tốt, điều này buộc những người lãnh đạo của ngân hàng gặp khó khăn phải chịu giá trị của họ, giảm nguy cơ đạo đức. Ở chiều ngược lại thì Ngân hàng Nhà nước vẫn sẵn sàng để ngăn chặn tình trạng rút tiền lớn.
Thứ năm, hoạt động xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm của nợ xấu chính thức được Luật hóa điều này sẽ hỗ trợ hoạt động xử lý nợ xấu của các ngân hàng. Tuy nhiên, việc bỏ điều khoản thu giữ tài sản đảm bảo sẽ gây ra nhiều khó khăn.
Thứ sáu, cấm gắn bán sản phẩm bảo hiểm không bắt buộc với việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng dưới mọi hình thức. Điều này sẽ ngăn các ngân hàng sẽ không được đưa điều kiện khách hàng phải mua bảo hiểm để được cấp tín dụng hay các dịch vụ khác.
Có thể thấy, các điểm nổi bật trong Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) chắc chắn sẽ tạo ra những thay đổi tích cực trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, tính hiệu lực, hiệu quả của quy định này còn phụ thuộc nhiều vào khâu thực thi sau này, nhất là việc tuân thủ công bố thông tin, đảm bảo thực chất, công khai, minh bạch và kịp thời…