Ủy ban thường trực
Ủy ban không chỉ là các “công xưởng” của Quốc hội trong quá trình làm luật, đây còn là người canh gác chính trong hoạt động giám sát của Quốc hội. Các cơ quan này có thể tiến hành điều trần hay điều tra mà không cần sự cho phép của Quốc hội. Trong khi đó, Quốc hội cũng không có quyền yêu cầu Ủy ban thường trực tiến hành điều tra. Các Ủy ban cũng không báo cáo trước phiên họp toàn thể khi điều tra kết thúc. Họ chỉ có thể công khai báo cáo điều tra này trên các bản in cứng hay trên trang web chứ không được đưa ra thảo luận tại phiên họp toàn thể. Vì vậy, mọi công việc giám sát của các Ủy ban đều được thực hiện bên ngoài nghị trường.
Chẳng hạn, Ủy ban Đối ngoại là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong giám sát hoạt động đối ngoại. Các thành viên trong Ủy ban thường là những người có kinh nghiệm về đối ngoại, và vì vậy các đánh giá, phân tích hoạt động đối ngoại của cơ quan hành pháp thường sát với thực tế.
Ủy ban Đối ngoại có thể thực hiện chức năng giám sát thông qua hoạt động lập pháp như thẩm định các dự luật phê chuẩn điều ước quốc tế. Theo quy trình thủ tục, Ủy ban sẽ bổ nhiệm một báo cáo viên chịu trách nhiệm nghiên cứu các khía cạnh của điều ước. Ủy ban được phép gửi câu hỏi chất vấn cho Chính phủ để có được các thông tin đầy đủ nhất về điều ước. Sau khi được thông qua tại Ủy ban, báo cáo được chuyển tới từng nghị sỹ. Tại phiên họp toàn thể, báo cáo viên của Ủy ban sẽ trình bày quan điểm và lập luận của Ủy ban sau khi Bộ trưởng giới thiệu về điều ước.
Một hoạt động khác cũng có tính chất giám sát lĩnh vực đối ngoại đó là việc thông qua dự thảo ngân sách, trong đó có ngân sách cho lĩnh vực đối ngoại. Các cuộc thảo luận về ngân sách đối ngoại tại Nghị viện và Ủy ban Đối ngoại thường vượt khỏi khuôn khổ các vấn đề tài chính thuần túy và mở rộng sang lĩnh vực chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao của Chính phủ. Ủy ban Đối ngoại cũng chỉ định một báo cáo viên, chịu trách nhiệm soạn thảo và tổng hợp ý kiến của ủy ban về dự chi ngân sách. Các ủy ban khác trong Nghị viện cũng có trách nhiệm thẩm định dự chi ngân sách thuộc lĩnh vực của mình dưới dạng ý kiến.
Bên cạnh đó, Ủy ban Đối ngoại cũng có thể thực hiện chức năng giám sát qua việc thu nhận thông tin về chính sách và hoạt động đối ngoại của chính phủ. Có hai cách để khai thác thông tin là tiến hành các buổi điều trần (audition) và tổ chức các phái đoàn giám sát (mission d’information). Ủy ban có quyền triệu tập tất cả các buổi điều trần cần thiết đối với Thủ tướng, các bộ trưởng liên quan đến đối ngoại (Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng các vấn đề về EU, Bộ trưởng phụ trách Hợp tác và Pháp ngữ...), các quan chức ngoại giao cấp cao hoặc các chuyên gia. Các buổi điều trần tại Ủy ban Đối ngoại không mở cửa cho công chúng và thường là những buổi làm việc có tính chất đối thoại giữa cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp.
Điều 145 Quy chế hoạt động của Nghị viện cho phép các ủy ban thường trực thành lập các phái đoàn giám sát nhằm tạo điều kiện cho các báo cáo viên và các thành viên của ủy ban đến thực địa (trong và ngoài nước).
Ngoài ra, Ủy ban cũng có quyền tiếp cận một số các thông tin đối ngoại trực tiếp từ Bộ Ngoại giao. Ủy ban cũng có nguồn thông tin từ những thành viên của Ủy ban được cử làm đại diện tại các tổ chức quốc tế và châu Âu như LHQ, Hội đồng châu Âu, Nghị viện châu Âu...
Ủy ban điều tra
Quốc hội có thể kiểm soát hoạt động của Chính phủ thông qua việc thành lập Ủy ban điều tra. Đây hoàn toàn là sáng kiến của Nghị viện và được thực hiện theo kiến nghị của một hay một vài đại biểu. Kiến nghị này phải nêu được lý do thành lập và mục tiêu của việc điều tra. Sau đó, kiến nghị sẽ được chuyển tới một Ủy ban thường trực và Ủy ban này sẽ nhận được báo cáo sau một tháng kể từ ngày nhận được kiến nghị này. Quốc hội sẽ tiến hành biểu quyết tại phiên họp toàn thể. Quy trình này cũng tương tự như quy trình thủ tục lập pháp thông thường.
Việc thành lập các ủy ban điều tra cũng là một công cụ giúp Nghị viện có được thông tin đầy đủ về các hồ sơ liên quan đến lĩnh vực đối ngoại. Việc thành lập ủy ban điều tra phải do Chủ tịch Nghị viện đề xuất. Các thành viên của Ủy ban được phân bổ theo tương quan giữa các đảng phái chính trị trong Nghị viện. Ủy ban điều tra chỉ có quy chế hoạt động tạm thời. Ủy ban sẽ giải tán sau 6 tháng điều tra hoặc sẽ phải ngừng hoạt động khi có văn bản khởi tố vụ việc đang bị Ủy ban điều tra xem xét. Chính hai điều kiện ràng buộc này đã hạn chế vai trò của Ủy ban điều tra bởi: Thứ nhất, Chính phủ hoàn toàn có thể thúc đẩy một cuộc điều tra tư pháp nhằm đình chỉ hoạt động Ủy ban Điều tra. Thứ hai, thời hạn 6 tháng là quá ngắn đối với các hồ sơ quan trọng. Hơn nữa, Ủy ban điều tra không có quyền đưa ra quyết định mà chỉ có thể đưa ra các khuyến nghị dựa trên báo cáo điều tra.