GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG ĐỊA PHƯƠNG

Bảo đảm tính giải trình

Hoạt động giám sát của hội đồng địa phương ở các nước trước hết nhằm bảo đảm tính giải trình của chính quyền địa phương.


Tính giải trình (accountability) được định nghĩa là nghĩa vụ của cơ quan, cá nhân phải trả lời trước cơ quan, cá nhân khác có thẩm quyền về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình được giao. Trong những năm gần đây, do quy mô, mức độ can thiệp của nhà nước vào đời sống xã hội ngày càng tăng, với tư cách là thiết chế duy nhất đại diện cho nhân dân ở địa phương, hội đồng càng đóng vai trò trung tâm trong việc áp đặt trách nhiệm giải trình từ phía bộ máy công quyền đối với nhân dân. Mặt khác, cũng chính xu hướng đó yêu cầu phải có nhiều hơn các phương thức, công cụ giám sát đa dạng, càng phải cải tiến và sử dụng các hình thức giám sát khác nhau, giúp cho tập thể hội đồng và cá nhân đại biểu hội đồng có cơ sở phản biện đối với hành chính địa phương và buộc cơ quan này giải trình.

Giải trình nhằm buộc cơ quan hành chính địa phương phải hoàn thành trách nhiệm của mình, và khi có vấn đề xảy ra hoặc có than phiền từ dân, phải sẵn có cơ chế buộc các cơ quan đó phải giải trình về hành động hoặc không hành động của mình. Khác với trách nhiệm phải làm, giải trình hàm ý báo cáo, giải thích về những gì đã làm hoặc không làm theo trách nhiệm đó. Các kênh buộc chính quyền phải giải trình gồm: giải trình trước tòa án, khi các quyết định và hành vi của cơ quan hành chính địa phương có thể bị kiện ở tòa; giải trình trước công chúng trong các kỳ bầu cử và qua báo chí; giải trình trước hội đồng. Ở nhiều nước, giải trình của hành chính trước hội đồng chủ yếu mang tính chất chính trị, vì đó là giải trình về thực hiện chính sách, trước một thiết chế do nhân dân bầu lên.

Theo một báo cáo nghiên cứu ở Anh về giải trình, giải trình gồm có bốn yếu tố: thứ nhất, giải thích về những gì đã và đang diễn ra, ví dụ trong các báo cáo thường niên; thứ hai, cung cấp thông tin bổ sung về hoạt động khi có yêu cầu, ví dụ cho một tiểu ban của hội đồng địa phương; thứ ba, rà soát hoạt động, hệ thống, cách làm, sửa đổi, thay đổi theo yêu cầu; thứ tư, sử dụng các thẩm quyền, chế tài để buộc đối tượng chịu trách nhiệm giải trình cam kết đạt được sự thay đổi tích cực.

Không phải mọi công cụ giám sát đều đạt được các yếu tố này ở mức độ như nhau. Chẳng hạn, các báo cáo thường niên có ưu điểm giải thích có hệ thống về quá trình hoạt động của các cơ quan cung cấp dịch vụ công ở địa phương, nhưng người đọc báo cáo không thể tiếp tục yêu cầu giải thích thêm. Các phiên hỏi đáp ở hội đồng có thể tìm kiếm, “moi ra” các thông tin bổ sung cụ thể. Còn các phiên điều trần của hội đồng có thể là kênh hiệu quả và có hiệu lực trong việc áp đặt trách nhiệm giải trình đối với hành chính. Hoạt động giám sát này có thể đạt được cả bốn yếu tố của giải trình nói trên, từ việc yêu cầu giải thích về những gì các ngành đã làm, cung cấp thêm thông tin về những điểm chưa rõ, rà soát hiện trạng, đưa các kiến nghị sửa đổi. Đặc biệt, các phiên điều trần thích hợp để nghe lập luận, giải thích về các hành động đã diễn ra, cũng như yêu cầu cam kết sửa chữa, điều chỉnh những mặt chưa được từ phía hành chính địa phương.

Giám sát

Chịu trách nhiệm cao nhất về hành chính của nghị viện
Giám sát

Chịu trách nhiệm cao nhất về hành chính của nghị viện

Bên cạnh vai trò cố vấn cho Chủ tịch Nghị viện về các vấn đề thủ tục và thể chế, vị trí Tổng Thư ký còn đảm đương nhiều chức năng và nhiệm vụ quan trọng khác liên quan đến việc chỉ đạo và điều hành các dịch vụ hành chính phức tạp nhằm bảo đảm hoạt động của nghị viện diễn ra suôn sẻ.
Cách thức bổ nhiệm quyết định địa vị pháp lý
Giám sát

Cách thức bổ nhiệm quyết định địa vị pháp lý

Thủ tục và cách thức bổ nhiệm quyết định địa vị pháp lý của Tổng Thư ký cũng như mối quan hệ của vị trí này đối với cơ quan lãnh đạo. Có sự khác biệt đáng kể trong cách thức bổ nhiệm Tổng Thư ký ở Nghị viện các nước trên thế giới. Qua khảo sát, có thể chia thành 5 cách thức: Do người đứng đầu Nghị viện bổ nhiệm; do ban lãnh đạo Nghị viện bổ nhiệm; do toàn thể Nghị viện bầu, do một cơ quan bên ngoài Nghị viện bầu; hoặc là kết quả của một cuộc cạnh tranh công khai để lựa chọn các ứng cử viên.
Để ngôi nhà thực sự là chốn an toàn
Giám sát

Để ngôi nhà thực sự là chốn an toàn

Bạo lực gia đình lâu nay vẫn là vấn đề nhức nhối, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách luôn phải nỗ lực mong tìm ra các biện pháp hữu hiệu để xử lý triệt để. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát trên khắp thế giới khiến số ca bạo lực gia đình tăng mạnh, nhiều quốc gia đã coi đây là đại dịch nguy hiểm không kém gì virus Corona.
"Thanh gươm sắc bén"
Giám sát

"Thanh gươm sắc bén"

Năm 1974, việc Ủy ban Pháp luật Hạ viện Mỹ vào cuộc điều tra trong vụ bê bối Watergates đã buộc Tổng thống Nixon từ chức. Đó là một trong những ví dụ điển hình cho thấy, các ủy ban điều tra đóng vai trò rất lớn trong thực hiện chức năng giám sát của Nghị viện. Đây cũng là một trong những “thanh gươm sắc bén” trong chống tham nhũng và tình trạng lạm dụng công quyền trong hệ thống cơ quan nhà nước.
Công cụ quan trọng thực hiện chức năng giám sát
Giám sát

Công cụ quan trọng thực hiện chức năng giám sát

Ở Quốc hội Mỹ và nghị viện của một số nước châu Âu như Pháp, Bỉ, Hà Lan…, một trong những công cụ quan trọng nhất trong việc thực hiện chức năng giám sát là hoạt động điều tra. Quyền điều tra thường được trao cho các ủy ban điều tra hoặc ủy ban đặc biệt.
Các công cụ giám sát
Giám sát

Các công cụ giám sát

Để thực hiện chức năng giám sát đối với cơ quan hành pháp và các cơ quan khác của EU, EP được trao một số công cụ giám sát cơ bản như quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Ủy ban châu Âu, quyền chất vấn và thành lập các ủy ban điều tra.
Nghị viện siêu quốc gia
Giám sát

Nghị viện siêu quốc gia

Tiền thân là Quốc hội chung (Common Assembly) ra đời dựa trên Hiệp ước thành lập Cộng đồng Than và Thép châu Âu (1951), Nghị viện châu Âu (EP) ngày nay đã trở thành một trong những thể chế chính trị quan trọng nhất của Liên minh châu Âu (EU). Cùng với Hội đồng Bộ trưởng, EP tạo thành lưỡng viện lập pháp của các thể chế của Liên minh và được mô tả là một trong những cơ quan lập pháp quyền lực nhất thế giới.
Luận tội - công cụ giám sát còn mang tính hình thức
Giám sát

Luận tội - công cụ giám sát còn mang tính hình thức

Ở nhiều nước, nghị viện được trao quyền phế truất người đứng đầu hành pháp với những hình thức khác nhau như luận tội, bãi miễn… Theo khảo sát 88 nước của IPU, 77 nước có quy định về những hình thức này. Trong đó, thủ tục luận tội các quan chức hành pháp được áp dụng ở 66 nước, có cả theo chính thể đại nghị lẫn các nước theo chính thể cộng hòa tổng thống.
Chất vấn - hình thức giám sát phổ biến nhất
Giám sát

Chất vấn - hình thức giám sát phổ biến nhất

Nghị viện ở các nước dù ít hay nhiều đều thực hiện chức năng giám sát, trong đó chủ yếu giám sát hoạt động của hành pháp. Để giám sát được hiệu quả, không chỉ cần có năng lực, nguồn lực, mà còn cần đến các hình thức giám sát. Hoạt động giám sát của nghị viện các nước gồm có một số hình thức tiêu biểu như phiên hỏi - đáp, chất vấn, bỏ phiếu bất tín nhiệm, điều tra, điều trần, luận tội...
Bỏ phiếu bất tín nhiệm - công cụ giám sát có tính răn đe
Giám sát

Bỏ phiếu bất tín nhiệm - công cụ giám sát có tính răn đe

Ở những nước có Chính phủ được thành lập từ nghị viện, quy trình quy trách nhiệm của Chính phủ trước nghị viện được thực hiện chủ yếu bằng hai hình thức: bỏ phiếu bất tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ. Trong số 88 nước được khảo sát, 64 nghị viện có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ, trong đó 36 nước theo chế độ đại nghị, 10 nước theo chế độ tổng thống, 18 nước theo chế độ hỗn hợp; các nước còn lại đại đa số với chế độ tổng thống không thừa nhận hình thức bỏ phiếu này.
Báo cáo - kênh giám sát chính thống
Giám sát

Báo cáo - kênh giám sát chính thống

Hội đồng địa phương thường phải xem xét, phê chuẩn báo cáo của cơ quan hành chính địa phương như báo cáo hàng năm, báo cáo giám sát, kế hoạch phát triển địa phương, báo cáo kiểm toán, báo cáo hoạt động, báo cáo tài chính… Những báo cáo này là một trong những kênh giám sát chính thống vì chúng cung cấp thông tin, góp phần minh bạch hóa quá trình hoạt động của chính quyền địa phương.
Các tiểu ban giám sát
Giám sát

Các tiểu ban giám sát

Ở nhiều nước, theo quy định, Hội đồng có thể thành lập các tiểu ban thường trực hoặc lâm thời để giám sát hoặc thảo luận các dự thảo chính sách và trình báo cáo của tiểu ban cho hội đồng, ví dụ như Nam Phi, Tanzania, Philippines. Đây là công cụ giám sát mạnh, giúp Hội đồng xem xét kỹ lưỡng hơn các vấn đề chuyên sâu, có tính kỹ thuật mà toàn thể hội đồng khó có thể đảm nhận, qua đó nâng cao sự hiệu quả, hiệu lực của giám sát.
Các công cụ giám sát chi tiêu
Giám sát

Các công cụ giám sát chi tiêu

Hội đồng địa phương nhiều nước, ngoài các công cụ giám sát chung, trong lĩnh vực ngân sách có hai công cụ giám sát không thể thiếu là cơ quan kiểm toán và các tiểu ban trong lĩnh vực ngân sách.
Đánh giá hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương
Giám sát

Đánh giá hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương

Giám sát của hội đồng còn bao hàm việc đánh giá tính hiệu quả và hiệu năng hoạt động của chính quyền địa phương. Khái niệm hiệu quả trong mọi công việc mà hội đồng và hành chính địa phương đang làm như thế nào? Vẫn còn quan niệm đồng nhất giữa hiệu quả với năng suất, chi phí hoặc hiệu năng (chi phí tiền bạc và thời gian ít mà vẫn đạt mức dự kiến) hoặc đồng nhất hiệu quả với kết quả cuối cùng (có đầu ra, sản phẩm, bất luận có đạt mục tiêu không).
Thu hút công chúng tham gia hoạt động giám sát
Giám sát

Thu hút công chúng tham gia hoạt động giám sát

Các nhóm dân cư đang ngày càng được các hội đồng thu hút như một kênh để tìm hiểu các vấn đề của địa phương và giúp cộng đồng đóng góp vào việc xây dựng các chính sách của hội đồng, một phần của quá trình ra quyết định, tham gia vào hoạt động giám sát của hội đồng.