Quyền giám sát ngân sách của EP được thực hiện thông qua quyền quyết định ngân sách.
Cũng giống như mọi mô hình nghị viện, EP có quyền đặc biệt quan trọng trong việc quyết định ngân sách. EP tham gia vào quá trình chuẩn bị ngân sách, đặc biệt là đề ra hướng dẫn chung và loại hình chi tiêu. Nhiệm vụ của EP là cùng Hội đồng châu Âu xem xét dự thảo ngân sách và sau đó có quyền thông qua hoặc bác bỏ. Ngân sách của cộng đồng được chia làm hai loại chi tiêu: bắt buộc và không bắt buộc. Trước đây, khoản chi tiêu bắt buộc chiếm gần 90% ngân sách của cộng đồng. EP có rất ít quyền kiểm soát và gần như không có ảnh hưởng nào đến mảng này của ngân sách mà chỉ có quyền kiểm soát đối với 10% không bắt buộc còn lại, mà chủ yếu là các chi phí cho quỹ xã hội và khu vực. Trong khi bàn thảo về vấn đề ngân sách, EP có quyền đưa ra quyết định đối với những chi tiêu không bắt buộc, nhưng chỉ có quyền đề xuất thay đổi đối với chi tiêu bắt buộc.
Đến nay, khoản chi tiêu “không bắt buộc” đã tăng lên, chiếm gần 55% ngân sách của Liên minh châu Âu, do đó quyền hạn của EP trong vấn đề ngân sách cũng tăng lên. Bên cạnh đó, Hiến pháp châu Âu ra đời cũng góp phần tăng cường quyền hạn của EP trong lĩnh vực này. Cụ thể là Hiến pháp đề xuất hủy bỏ sự phân biệt giữa chi tiêu bắt buộc và chi tiêu không bắt buộc. Bổ sung vào quyền bác bỏ hoàn toàn quy trình ngân sách, EP có quyền ra quyết định cuối cùng đối với toàn bộ quy trình ngân sách.
Để giúp EP trong việc quyết định ngân sách, một Ủy ban kiểm soát ngân sách được thành lập chịu trách nhiệm kiểm soát sự thực hiện ngân sách của Liên minh và của Quỹ phát triển châu Âu, các quyết định liên quan đến việc chi tiêu của Nghị viện, bao gồm quá trình chi tiêu nội bộ và tất cả các giải pháp đi kèm hay thực hiện các quyết định đó. Ủy ban cũng có thẩm quyền kiểm tra sổ sách kế toán và bảng cân đối kế toán của Liên minh, tình hình tài chính của các thể chế và các cơ quan được cung cấp tài chính. Ủy ban có thẩm quyền kiểm soát các hoạt động tài chính của Ngân hàng đầu tư châu Âu và giám sát tính hiệu quả chi tiêu trong việc thực hiện các chính sách của Liên minh. Ủy ban cũng có trách nhiệm thẩm tra gian lận và vi phạm pháp luật trong khi thực hiện ngân sách Liên minh và đưa ra các giải pháp ngăn chặn, tham gia tố tụng những trường hợp liên quan và bảo vệ lợi ích tài chính Liên minh nói chung. Ủy ban cũng có quyền đưa ra quy định tài chính và thực hiện quản lý, kiểm soát ngân sách.
Bên cạnh vai trò cố vấn cho Chủ tịch Nghị viện về các vấn đề thủ tục và thể chế, vị trí Tổng Thư ký còn đảm đương nhiều chức năng và nhiệm vụ quan trọng khác liên quan đến việc chỉ đạo và điều hành các dịch vụ hành chính phức tạp nhằm bảo đảm hoạt động của nghị viện diễn ra suôn sẻ.
Thủ tục và cách thức bổ nhiệm quyết định địa vị pháp lý của Tổng Thư ký cũng như mối quan hệ của vị trí này đối với cơ quan lãnh đạo. Có sự khác biệt đáng kể trong cách thức bổ nhiệm Tổng Thư ký ở Nghị viện các nước trên thế giới. Qua khảo sát, có thể chia thành 5 cách thức: Do người đứng đầu Nghị viện bổ nhiệm; do ban lãnh đạo Nghị viện bổ nhiệm; do toàn thể Nghị viện bầu, do một cơ quan bên ngoài Nghị viện bầu; hoặc là kết quả của một cuộc cạnh tranh công khai để lựa chọn các ứng cử viên.
Bạo lực gia đình lâu nay vẫn là vấn đề nhức nhối, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách luôn phải nỗ lực mong tìm ra các biện pháp hữu hiệu để xử lý triệt để. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát trên khắp thế giới khiến số ca bạo lực gia đình tăng mạnh, nhiều quốc gia đã coi đây là đại dịch nguy hiểm không kém gì virus Corona.
Năm 1974, việc Ủy ban Pháp luật Hạ viện Mỹ vào cuộc điều tra trong vụ bê bối Watergates đã buộc Tổng thống Nixon từ chức. Đó là một trong những ví dụ điển hình cho thấy, các ủy ban điều tra đóng vai trò rất lớn trong thực hiện chức năng giám sát của Nghị viện. Đây cũng là một trong những “thanh gươm sắc bén” trong chống tham nhũng và tình trạng lạm dụng công quyền trong hệ thống cơ quan nhà nước.
Ở Quốc hội Mỹ và nghị viện của một số nước châu Âu như Pháp, Bỉ, Hà Lan…, một trong những công cụ quan trọng nhất trong việc thực hiện chức năng giám sát là hoạt động điều tra. Quyền điều tra thường được trao cho các ủy ban điều tra hoặc ủy ban đặc biệt.
Để thực hiện chức năng giám sát đối với cơ quan hành pháp và các cơ quan khác của EU, EP được trao một số công cụ giám sát cơ bản như quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Ủy ban châu Âu, quyền chất vấn và thành lập các ủy ban điều tra.
Tiền thân là Quốc hội chung (Common Assembly) ra đời dựa trên Hiệp ước thành lập Cộng đồng Than và Thép châu Âu (1951), Nghị viện châu Âu (EP) ngày nay đã trở thành một trong những thể chế chính trị quan trọng nhất của Liên minh châu Âu (EU). Cùng với Hội đồng Bộ trưởng, EP tạo thành lưỡng viện lập pháp của các thể chế của Liên minh và được mô tả là một trong những cơ quan lập pháp quyền lực nhất thế giới.
EP được trao một loạt quyền giám sát và kiểm soát đối với các thể chế khác của EU, trong đó có quyền giám sát ngân sách châu Âu và bảo đảm luật pháp của châu Âu được thực thi đúng cách.
Ở nhiều nước, nghị viện được trao quyền phế truất người đứng đầu hành pháp với những hình thức khác nhau như luận tội, bãi miễn… Theo khảo sát 88 nước của IPU, 77 nước có quy định về những hình thức này. Trong đó, thủ tục luận tội các quan chức hành pháp được áp dụng ở 66 nước, có cả theo chính thể đại nghị lẫn các nước theo chính thể cộng hòa tổng thống.
Nghị viện ở các nước dù ít hay nhiều đều thực hiện chức năng giám sát, trong đó chủ yếu giám sát hoạt động của hành pháp. Để giám sát được hiệu quả, không chỉ cần có năng lực, nguồn lực, mà còn cần đến các hình thức giám sát. Hoạt động giám sát của nghị viện các nước gồm có một số hình thức tiêu biểu như phiên hỏi - đáp, chất vấn, bỏ phiếu bất tín nhiệm, điều tra, điều trần, luận tội...
Ở những nước có Chính phủ được thành lập từ nghị viện, quy trình quy trách nhiệm của Chính phủ trước nghị viện được thực hiện chủ yếu bằng hai hình thức: bỏ phiếu bất tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ. Trong số 88 nước được khảo sát, 64 nghị viện có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ, trong đó 36 nước theo chế độ đại nghị, 10 nước theo chế độ tổng thống, 18 nước theo chế độ hỗn hợp; các nước còn lại đại đa số với chế độ tổng thống không thừa nhận hình thức bỏ phiếu này.
Hội đồng địa phương thường phải xem xét, phê chuẩn báo cáo của cơ quan hành chính địa phương như báo cáo hàng năm, báo cáo giám sát, kế hoạch phát triển địa phương, báo cáo kiểm toán, báo cáo hoạt động, báo cáo tài chính… Những báo cáo này là một trong những kênh giám sát chính thống vì chúng cung cấp thông tin, góp phần minh bạch hóa quá trình hoạt động của chính quyền địa phương.
Ở nhiều nước, theo quy định, Hội đồng có thể thành lập các tiểu ban thường trực hoặc lâm thời để giám sát hoặc thảo luận các dự thảo chính sách và trình báo cáo của tiểu ban cho hội đồng, ví dụ như Nam Phi, Tanzania, Philippines. Đây là công cụ giám sát mạnh, giúp Hội đồng xem xét kỹ lưỡng hơn các vấn đề chuyên sâu, có tính kỹ thuật mà toàn thể hội đồng khó có thể đảm nhận, qua đó nâng cao sự hiệu quả, hiệu lực của giám sát.
Hội đồng địa phương nhiều nước, ngoài các công cụ giám sát chung, trong lĩnh vực ngân sách có hai công cụ giám sát không thể thiếu là cơ quan kiểm toán và các tiểu ban trong lĩnh vực ngân sách.
Được khởi xướng khoảng hai mươi năm trước, Thẻ cho điểm cộng đồng (Community Score Card - CSC) và Thẻ báo cáo công dân (Citizen Report Card - CRC) là những công cụ giám sát ở Hội đồng địa phương một số nước với sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương.
Giám sát của hội đồng còn bao hàm việc đánh giá tính hiệu quả và hiệu năng hoạt động của chính quyền địa phương. Khái niệm hiệu quả trong mọi công việc mà hội đồng và hành chính địa phương đang làm như thế nào? Vẫn còn quan niệm đồng nhất giữa hiệu quả với năng suất, chi phí hoặc hiệu năng (chi phí tiền bạc và thời gian ít mà vẫn đạt mức dự kiến) hoặc đồng nhất hiệu quả với kết quả cuối cùng (có đầu ra, sản phẩm, bất luận có đạt mục tiêu không).
Một nguyên tắc khác trong giám sát cho thấy mối quan hệ giữa chính quyền địa phương và dân chúng là hỏi xem dân đánh giá như thế nào về chất lượng phục vụ của chính quyền.
Các nhóm dân cư đang ngày càng được các hội đồng thu hút như một kênh để tìm hiểu các vấn đề của địa phương và giúp cộng đồng đóng góp vào việc xây dựng các chính sách của hội đồng, một phần của quá trình ra quyết định, tham gia vào hoạt động giám sát của hội đồng.