Khó hình dung hiệu quả từ đầu tư cho khoa học, công nghệ
Báo cáo của Chính phủ nêu rõ, năm 2023, ngân sách nhà nước dành cho hoạt động khoa học và công nghệ (chưa tính kinh phí dành cho an ninh-quốc phòng, chi dự phòng, chi đầu tư phát triển dành cho khoa học và công nghệ từ nguồn ngân sách địa phương) là 15.212,4 tỷ đồng, chiếm khoảng 0,73% tổng chi ngân sách nhà nước.
Từ đầu tư của ngân sách nhà nước cũng như triển khai chính sách, pháp luật liên quan, theo báo cáo của Chính phủ, khoa học, công nghệ đã đóng góp tích cực cho sự phát triển đồng bộ các ngành, lĩnh vực. Khoa học xã hội đã đóng góp tích cực và cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Việc nghiên cứu, nâng cao năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được quan tâm triển khai ở các bộ, ngành, địa phương. Nhiều thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại được ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi trong các lĩnh vực y tế, nông nghiệp, công nghiệp, thông tin...; hoạt động xúc tiến hỗ trợ tìm kiếm, trao đổi, chuyển giao công nghệ được đẩy mạnh.
Tuy nhiên, thẩm tra về nội dung này, ĐBQH Nguyễn Thanh Phương (TP. Cần Thơ) cho rằng, báo cáo của Chính phủ “nặng” về liệt kê các đầu việc hoàn thành trong triển khai chính sách, biện pháp để phát triển khoa học, công nghệ, cũng như sử dụng ngân sách nhà nước. So với báo cáo các năm trước, báo cáo năm 2023 thiếu những số liệu minh họa cụ thể liên quan đến sở hữu trí tuệ, giải pháp chuyển giao kỹ thuật… nên khó hình dung với số tiền từ ngân sách chi cho khoa học, công nghệ tạo đã ra những sản phẩm cụ thể nào?
Dẫn từ số liệu thống kê của năm 2022, đại biểu Nguyễn Thanh Phương cho biết, số lượng bài báo khoa học công nghệ của Việt Nam được công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín là 18.000 bài. Đáng chú ý, một số cơ quan, bộ, ngành, cơ quan được cấp kinh phí nhiều lại có số lượng công trình, bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế ít hơn những đơn vị khác. Ví dụ, Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam được cấp 845 tỷ đồng và đã được công bố 1.619 bài báo về khoa học công nghệ trên các tạp chí quốc tế uy tín. Trong khi đó, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh được cấp kinh phí 162 tỷ đồng, nhưng đã được công bố 2.248 bài báo khoa học công nghệ, Đại học Cần Thơ được cấp khoảng 30 tỷ đồng nhưng đã được công bố 716 bài.
Qua ví dụ nêu trên, đại biểu Nguyễn Thanh Phương cho rằng, Bộ Khoa học và Công nghệ cùng các cơ quan cần xem xét lại tính hiệu quả trong việc phân bổ kinh phí giữa các cơ quan, đơn vị thông qua các sản phẩm khoa học công nghệ được quốc tế công nhận. Điều này cũng tránh tình trạng cơ quan, đơn vị nào năm trước được lập dự toán phân bổ ngân sách cao thì năm sau sẽ vẫn được dự toán cao, chưa bám sát vào hiệu quả sử dụng ngân sách của từng cơ quan, đơn vị.
Phân tích vấn đề ở góc độ khác, Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách Vũ Tuấn Anh nhận thấy, phân bổ và giao dự toán ngân sách về khoa học công nghệ hàng năm thường vẫn để lại một khoản kinh phí chưa phân bổ. Số tiền này thường được Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất trích ra để phân bổ nhưng lại không nêu rõ để thực hiện, triển khai vào những nhiệm vụ cụ thể nào? Vấn đề này cần được Bộ và các cơ quan hữu quan làm rõ hơn về nhiệm vụ chi đã có kế hoạch từ trước không hay phát sinh từ khi nào?
Vướng mắc trong định giá sản phẩm nghiên cứu khoa học
Đây là một hạn chế được nêu trong báo cáo của Chính phủ. Theo đó, hiện nay các cơ quan, đơn vị muốn chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học, thì phải định giá được sản phẩm. Nhưng, nếu định giá cao, doanh nghiệp sẽ không mua, còn định giá thấp mà sản phẩm sau đó mang lại hiệu quả kinh tế cao thì nhà khoa học có thể bị quy trách nhiệm làm thất thoát tài sản Nhà nước. Theo báo cáo của Chính phủ, đây là vướng mắc chung của tất cả viện, trường, đại học trên cả nước.
Từ thực tế nêu trên, ĐBQH Nguyễn Thị Lan (Hà Nội) cho biết, để đưa kết quả nghiên cứu khoa học vào ứng dụng trong thực tiễn sẽ phải tiến hành thương mại hóa, chuyển giao kết quả nghiên cứu. Nhưng, quá trình thực hiện các công tác này đang “vướng” vì không biết phân chia như thế nào cho Nhà nước, đơn vị nghiên cứu, doanh nghiệp nhận chuyển giao, cũng như không biết định giá sản phẩm thế nào cho đúng (?). Theo đại biểu Nguyễn Thị Lan, các doanh nghiệp, viện, trường, đại học đều có nhu cầu chuyển giao và nhận chuyển giao kết quả nghiên cứu, nhưng vì vướng vào những vấn đề nêu trên nên chưa thể thực hiện được. Do vậy, Bộ Khoa học và Công nghệ cần phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát chính sách, pháp luật để tháo gỡ kịp thời cho đơn vị nghiên cứu khoa học.
Một số đại biểu cũng nêu rõ, việc xử lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ khoa học, công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước có khó khăn trong việc xác định phạm vi tài sản trang bị cần xử lý, cơ chế tính hao mòn/khấu hao của tài sản trang bị, quy trình và thủ tục giao tài sản trang bị không bồi hoàn, trình tự và thủ tục thành lập Hội đồng thẩm định bán tài sản trang bị, xác định các hình thức tài sản cố định đối với tài sản là kết quả của nhiệm vụ, định giá tài sản, thương mại hóa tài sản là kết quả của nhiệm vụ khoa học, công nghệ, hạn chế về đối tượng được nhận giao tài sản… Việc định giá và phân chia lợi nhuận tiềm ẩn nhiều rủi ro vi phạm pháp luật cũng là một trong những nguyên nhân của việc tỷ lệ thương mại hóa kết quả nghiên cứu còn thấp.
Để tháo gỡ những vướng mắc nêu trên, tại phiên thẩm tra, các thành viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường thống nhất cho rằng, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành rà soát, nghiên cứu sửa đổi các Luật liên quan để tạo hệ thống pháp luật đồng bộ, tạo cơ chế thu hút nguồn lực của doanh nghiệp đầu tư cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trong đó, sớm hoàn thiện đề nghị sửa đổi, bổ sung các Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa để trình Quốc hội xem xét đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Đồng thời, nghiên cứu cơ chế đặc thù, chấp nhận rủi ro, thất bại trong nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ; tập trung gỡ bỏ các rào cản hành chính trong quản lý hoạt động khoa học, công nghệ...