Trong hầu hết các mô hình hành chính nghị viện dù là đơn viện hay lưỡng viện, Tổng Thư ký cho mỗi viện đều là đại diện cao nhất của cơ quan hành chính và chịu trách nhiệm trước các quan chức chính trị cao nhất của nghị viện.
Có một số trường hợp ngoại lệ chẳng hạn như Nghị viện Áo, Fiji, Nam Phi và Liên bang Thụy Sĩ có một Tổng Thư ký chung cho cả hai viện. Một trường hợp ngoại lệ khác là Nghị viện Nepal. Tại đây, ngoài một tổng thư ký chịu trách nhiệm về các phiên họp chung của hai viện cũng như toàn bộ công việc hành chính của Nghị viện, còn có thư ký cho mỗi viện.
Pháp và Uruguay lại là mô hình đặc biệt khác. Nét đặc trưng của bộ máy hành chính Nghị viện Pháp là chế độ hành chính lưỡng đầu. Nghĩa là có hai người đứng đầu bộ máy hành chính ở mỗi viện. Hạ viện và Thượng viện đều có hai Tổng Thư ký; trong đó, một người chịu trách nhiệm về các dịch vụ lập pháp và người kia chịu trách nhiệm về các dịch vụ hành chính. Tổng thư ký lập pháp đảm nhiệm việc trợ giúp cho hoạt động chuyên môn của nghị viện (còn được hiểu là Tổng Thư ký về nội dung). Lập pháp ở đây không có nghĩa là làm luật, mà có nghĩa là hoạt động của cơ quan lập pháp (khác với hoạt động của cơ quan hành pháp). Hoạt động lập pháp ở nghĩa này bao hàm các công việc như tiến hành phiên họp toàn thể, hoạt động của các ủy ban, chất vấn, điều trần, biểu quyết… Tổng Thư ký về lập pháp chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Hạ viện (hoặc Chủ tịch Thượng viện). Tổng Thư ký về hành chính đảm nhiệm việc bảo đảm các điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật và dịch vụ hành chính cho Nghị viện. Tổng thư ký hành chính chịu trách nhiệm trước 3 quản trị viên. Các quản trị viên này đều là các nghị sĩ và được Nghị viện bầu. Mọi chủ trương chính sách liên quan đến chuyện tiền và cơ sở vật chất của Nghị viện chủ yếu do các quản trị viên quyết định. Tổng Thư ký về hành chính chỉ là người chịu trách nhiệm thi hành các công việc cụ thể.
Chế độ hành chính lưỡng đầu của Pháp được đánh giá là có những ưu việt nhất định nhưng cũng có những bất cập. Về nguyên tắc, mọi bộ máy hành chính, cho dù là hành chính nghị viện đều hoạt động theo chế độ thủ trưởng. Sự tồn tại của “hai thủ trưởng” có thể dẫn đến những mệnh lệnh hành chính trái nhau, gây khó khăn cho quá trình thực thi mệnh lệnh. Bên cạnh đó, sự phân chia công việc thành hai mảng lập pháp và hành chính không phải bao giờ cũng dễ dàng. Sẽ có những mảng có sự chồng lấn nhất định và việc định rõ thuộc thẩm quyền của tổng thư ký nào có thể sẽ gây ra những rắc rối trong chỉ đạo điều hành.
Tổng Thư ký, trong hầu hết các mô hình hành chính nghị viện đều là đại diện cao nhất của cơ quan hành chính và chịu trách nhiệm trước các quan chức chính trị cao nhất của cơ quan đó (thường là Chủ tịch Nghị viện hoặc ban lãnh đạo Nghị viện). Chủ tịch Nghị viện đưa ra các chính sách và hướng dẫn cho Nghị viện thông qua Tổng Thư ký.
Cùng là thủ tục mà ở đó các nghị sĩ hỏi và các bộ trưởng hoặc Thủ tướng Chính phủ trả lời nhưng ở một số nước đó là phiên chất vấn, ở một số nước khác lại là phiên hỏi - đáp. Vậy hai thủ tục này thực chất chỉ là một hay khác nhau, và nếu khác thì khác ở điểm nào?
Những thay đổi đối với các quy tắc sở hữu trí tuệ không chỉ vì mục tiêu hài hòa hóa các quy tắc sở hữu toàn cầu mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo hộ quốc tế và khu vực. Ngoài việc tăng cường thương mại quốc tế, các thay đổi này còn buộc pháp luật về sở hữu trí tuệ phải điều chỉnh và cập nhật phù hợp với thời đại mới.
Cập nhật và hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ luôn là quan tâm hàng đầu của nhiều nước trong thời đại Cách mạng Công nghệ 4.0. Bởi đây là một trong những yếu tố thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, giúp phát triển quốc gia và tăng cường năng lực cạnh tranh toàn cầu...
Sở hữu trí tuệ là một lĩnh vực của hệ thống pháp luật quy định việc sử dụng tài sản trí tuệ. Tuy nhiên, cùng với quá trình toàn cầu hóa, thế giới đã có những biến đổi đáng kể trong nửa thế kỷ qua, đòi hỏi các quy tắc sở hữu trí tuệ trong hệ thống này cũng phải thích ứng và thay đổi theo.
Nội các của Tổng thống Cyril Ramaphosa đã thông qua dự luật sửa đổi Luật Công ty năm 2021 để lấy ý kiến vào ngày 1.10 trước khi được gửi tới Quốc hội xem xét. Như vậy là, kể từ lần đầu tiên được đưa ra năm 2018, dự luật đề xuất những thay đổi đáng kể đối với Luật Công ty Nam Phi, đặc biệt là vấn đề trả lương cho lãnh đạo và người lao động.
LTS: Gần đây, Viện Luật Quốc tế và So sánh của Anh đã đưa ra cảnh báo về “nguy cơ bùng nổ các vụ kiện tụng cho hệ thống giải quyết tranh chấp quốc tế” do những vấn đề phát sinh từ đại dịch Covid-19, gây ra những thách thức lớn đối với các tòa án trên thế giới. Tương tự, theo thừa nhận gần đây của Tòa án Nhân dân Cấp cao Tứ Xuyên (Sichuan High People’s Court), những thách thức không chỉ là việc gia tăng đáng kể số vụ án mà còn làm tăng tính phức tạp trong tranh tụng cả do suy thoái kinh tế và các biện pháp được áp dụng để ngăn chặn đại dịch; do đó, cần có hướng dẫn bổ sung của các tòa án cấp cao hơn về những vấn đề mới nảy sinh này. Trước tình hình đó, các tòa án Trung Quốc đã nhanh chóng ban hành các quy tắc hỗ trợ xét xử tư pháp đối với tranh chấp dân sự hoặc thương mại phát sinh liên quan đến đại dịch Covid-19, có thể được coi là những kinh nghiệm quốc tế quan trọng để các quốc gia khác tham khảo.
Hai văn bản pháp lý quan trọng của TANDTC Trung Quốc liên quan đến pháp luật về hợp đồng là Hướng dẫn số 1 và Hướng dẫn số 2 về Covid-19 đã đưa ra quy tắc đặc biệt về việc kiểm tra khả năng thực hiện hợp đồng cho các loại hình hợp đồng cụ thể, bao gồm hợp đồng mua bán, cho thuê, khách sạn, dịch vụ cá nhân và xây dựng.
Ngày 30.1.2019, Tòa án Tối cao của Bangladesh đã công nhận sông Turag như là một thực thể sống có quyền hợp pháp, đồng thời rằng điều tương tự sẽ áp dụng cho tất cả các con sông ở Bangladesh. Quyết định trên là ví dụ mới nhất về xu hướng tôn trọng các quyền của thiên nhiên, mà cụ thể là các dòng sông, ở nhiều khu vực pháp lý khác nhau trên thế giới.
Luật Bảo vệ sông Dương Tử của Trung Quốc đã chính thức có hiệu lực vào ngày 1.3.2021. Luật quy định rõ tất cả các khía cạnh pháp lý về bảo vệ sinh thái của sông Dương Tử cùng sự phát triển dọc theo lưu vực của nó. Đây là luật bảo tồn một lưu vực sông cụ thể đầu tiên và cũng là nỗ lực của đất nước gấu trúc trong việc gìn giữ con sông dài nhất châu Á này.
Tại kỳ họp lần thứ 4 Quốc hội Khóa XIII vừa diễn ra, các nhà lập pháp Trung Quốc đã thông qua Kế hoạch 5 năm lần thứ 14, giai đoạn 2021 - 2025 trong đó có mong muốn đưa Trung Quốc trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới vận hành mô hình "tòa án thông minh" với một hệ thống tư pháp tích hợp trí tuệ nhân tạo.
Qua kinh nghiệm của Trung Quốc, có thể thấy việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Tòa án mang lại rất nhiều lợi ích, như: Nâng cao khả năng tiếp cận công lý, giảm các thủ tục và chi phí không cần thiết cho các đương sự, đặc biệt là những đương sự ở các khu vực xa trung tâm hay khu vực nông thôn; hỗ trợ thẩm phán, bất kể ở khu vực địa lý nào, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn hiệu quả hơn; hỗ trợ bộ phận quản lý hành chính Tòa án thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được dễ dàng hơn.
Từ năm 2017, Trung Quốc đã thúc đẩy mô hình tòa án trực tuyến (tòa án internet và tòa án di động) mà tại đó, mọi khâu trong tố tụng đều có thể được thực hiện qua mạng, các bên tham gia không cần xuất hiện tại tòa.
Vừa qua, Quốc hội Australia đã chính thức thông qua Dự luật Đàm phán truyền thông, buộc các nền tảng số toàn cầu trả tiền nếu muốn hiển thị nội dung tin tức của nước này. Văn bản pháp lý trên từng gây ra cuộc chiến căng thẳng giữa xứ sở kangaroo và ông lớn Facebook, sẽ là luật tiên phong về vấn đề này trên thế giới, là cơ sở để các nước hoạch định các luật tương tự. Nó đưa Australia trở thành quốc gia đầu tiên mà "trọng tài Chính phủ" sẽ đặt ra mức phí mà các gã khổng lồ công nghệ phải trả nếu quá trình đàm phán với các công ty truyền thông thất bại.
Mặc dù quê hương của những mạng xã hội nổi tiếng bậc nhất thế giới như Google, Facebook hay Twitter… là nước Mỹ, nhưng không phải các nền tảng công nghệ trên “muốn làm gì thì làm”. Bởi hoạt động của họ phải tuân theo rất nhiều quy định pháp luật mà các nhà lập pháp xứ sở cờ hoa đưa ra nhằm bảo đảm sự phát triển lành mạnh của môi trường ảo có khả năng kết nối không giới hạn này, nhất là việc bảo vệ quyền riêng tư của người dùng và nỗ lực thay đổi Điều 230 trong Luật về Chuẩn mực truyền thông của Mỹ, vốn bảo vệ các mạng xã hội khỏi những vụ kiện về nội dung.
Cuộc tranh cãi giữa Chính phủ Australia và mạng xã hội đình đám Facebook xung quanh vấn đề phí tin tức đang làm nổi lên chủ đề làm thế nào để các quốc gia kiểm soát tin tức của mình trên các mạng truyền thông xã hội khi mà số người dùng rất lớn, có sự kết nối với nhau vô cùng mạnh mẽ và tạo ra quyền lực chưa từng có cho những nền tảng này. Việc bảo vệ lợi ích của người dùng cũng như tránh những tác động tiêu cực từ các mạng xã hội là nhiệm vụ mà các nhà hoạch định chính sách trên toàn thế giới luôn chú trọng.
Trong bối cảnh hoạt động kinh tế - xã hội đang ngày càng được thực hiện nhiều trên môi trường mạng, tầm quan trọng của việc bảo vệ dữ liệu và sự riêng tư càng được công nhận. Theo UNCTAD (Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển), hiện có khoảng 128/192 quốc gia trên toàn thế giới đã và đang đưa vấn đề trên vào hệ thống luật pháp của mình.
Ở Thụy Sỹ, Luật Bảo vệ dữ liệu liên bang là cơ sở pháp lý chính điều chỉnh việc bảo vệ dữ liệu cá nhân. Mới đây nhất, ngày 25.9.2020, dự thảo sửa đổi luật này đã được hai viện của Quốc hội thông qua, kết thúc quá trình cân nhắc 3 năm, bắt đầu vào tháng 9.2017 khi dự thảo lần đầu tiên được trình. Tuy nhiên, luật mới sẽ còn phải qua trưng cầu dân ý và Hội đồng Liên bang vẫn chưa xác định ngày bắt đầu có hiệu lực, nhưng dự đoán sớm nhất vào năm 2022.
Ngày 2.11.2020, Quốc hội Singapore đã thông qua dự thảo sửa đổi Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân và Luật Kiểm soát thư rác. Đây là động thái mới nhất của đảo quốc sư tử trong việc cập nhật, hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến tăng cường bảo đảm quyền riêng tư và bảo vệ dữ liệu cá nhân của công dân.
Nếu là công dân Mỹ từ 18 tuổi trở lên, bạn có thể nghĩ mình có quyền bỏ phiếu cho các ứng cử viên tổng thống tại cuộc bầu cử quốc gia. Điều này chỉ đúng một phần bởi khi cử tri tham gia bầu cử phổ thông, họ thực chất chọn ra một nhóm các đại cử tri. Sau đó các đại cử tri này mới dùng các lá phiếu của mình để quyết định xem ai sẽ trở thành Tổng thống của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.