Kết hợp phát triển tuần tự và nhảy vọt biện chứng
Trên cơ sở nhận định tình hình thế giới và bối cảnh trong nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng viết: Là đảng cầm quyền lãnh đạo toàn xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và tình hình quốc tế có nhiều biến động nhanh chóng và phức tạp, Đảng ta ý thức rất rõ trách nhiệm và vinh dự của mình đối với đất nước và dân tộc. Đại hội VI của Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới.
Tiếp mạch nguồn đó, Đại hội VII của Đảng thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội". Đại hội VIII và IX của Đảng tiếp tục khẳng định con đường đi lên của cách mạng nước ta là: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Cả 7 Đại hội của Đảng tiếp tục đi tiếp con đường XHCN nhất quán suốt 93 năm qua: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Đó cũng là cuộc hành trình lớn và thành công của Đảng trong sự nghiệp lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước hơn 35 năm qua.
Theo đó, xây dựng một cách nhìn toàn diện; đồng thời phân tích cụ thể những tình huống cụ thể là phương pháp quan trọng bậc nhất trong việc nhận thức chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, không thể không xem trọng tương quan giữa cái logic và cái lịch sử. Nghĩa là, chúng ta phải xuất phát từ thời đại, từ đất nước mình và tự mình tìm ra lối đi cho đất nước, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, một cách không bảo thủ, không giáo điều và không cơ hội.
Đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn và đã được thực hiện ở nước ta. Tuy nhiên, phải trải qua hơn 3 thập kỷ, chúng ta mới bắt đầu nhận rõ hơn trong thực tiễn thế nào là “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Tại Đại hội lần thứ VII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt nam luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương: "Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, “bỏ qua thời kỳ tư bổn chủ nghĩa mà tranh đấu thẳng lên con đường XHCN”(39). Đó là một tư tưởng lớn rất quan trọng, một vấn đề lý luận và thực tiễn rất phức tạp và hết sức phong phú.
Chúng ta từng chứng kiến, cùng với hiện tượng tuần tự của lịch sử, còn nổi bật lên hiện tượng lịch sử nhảy vọt. Tiến hóa là cái bên trong (mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất) cộng với thời cơ. Do đó, khả năng “bỏ qua” giai đoạn (một hay nhiều) là có, là hiện thực, chỉ có điều còn tùy thuộc vào khả năng của nguồn lực bên trong với sự liên kết với nguồn lực bên ngoài. Đó là biện chứng của lịch sử, hoàn toàn hợp với quy luật tiến hóa của xã hội loài người.
Do đó, việc lựa chọn phương thức, cách đi, phải hết sức coi trọng sự phát triển tuần tự kết hợp với nhảy vọt biện chứng hoặc rút ngắn hoặc “đi tắt đón đầu” trên phương diện tổ chức thực tiễn các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Điểm độc đáo, mới mẻ làm nên bản sắc của chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay và trên hành trình trong thế kỷ XXI là, kết hợp sự phát triển tuần tự với sự phát triển nhảy vọt và sự phát triển ngắn hạn. Đó là con đường phát triển bằng hệ phương thức và bước đi phù hợp với quá trình lịch sử - tự nhiên tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua sự rút ngắn các giai đoạn, bước diễn tiến của nền văn minh loài người (về thời hạn, nấc thang phát triển…) dựa trên nền tảng sự tăng trưởng vượt bậc sức sản xuất xã hội và thể chế chính trị tiến bộ. Nghĩa là, chúng ta “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa xã hội theo cách riêng của mình hợp quy luật phổ biến, từ thực tế của đất nước và hợp với xu thế phát triển của thời đại, không chịu bất cứ một sức ép nào từ bên ngoài và nhất là không ảo tưởng vào một mô hình tiên nghiệm hay sẵn có nào.
Đảng ta hình dung và quyết định hết sức rõ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, với tư cách là một thể chế chính trị, nhưng phải rất tôn trọng quá trình lịch sử - tự nhiên, nhất là quá trình phát triển kinh tế, không thể nóng vội hay chủ quan, duy ý chí đối với quá trình này. Sự phát triển “rút ngắn” ở đây được hiểu chính là tiến trình đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển bằng cách thông qua những khâu trung gian, những hình thức quá độ, nhất là tăng trưởng kinh tế một cách phù hợp, trong điều kiện chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội với điểm xuất phát thấp. Đó là sự phát triển đứt đoạn trong liên tục, tuần tự kết hợp với nhảy vọt biện chứng. Đồng thời, hoạch định chính xác những bước đi cơ bản và quyết định bảo đảm thành công bước “bỏ qua” một cách biện chứng, nhất là những tính quy luật chung của quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, chính là sự phủ định biện chứng và việc chủ động kế thừa và phát triển những thành tựu toàn diện, những kết quả tích cực của chủ nghĩa tư bản, nhất là quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của thế giới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ XHCN, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”(40).
Xuất phát từ những luận điểm đó, với thực tiễn của hơn 77 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt bằng kinh nghiệm của hơn 35 năm đổi mới, ngày càng thấy một cách rõ ràng hơn về sự “bỏ qua” này: Một là, “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng phải tôn trọng quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là quá trình phát triển kinh tế; không thể nóng vội hay chủ quan, duy ý chí đối với quá trình này. Hai là, “bỏ qua” nhưng không thể bỏ qua những khâu trung gian, những hình thức quá độ. Ba là, “bỏ qua” nhưng không thể bỏ qua những tính quy luật chung của quá trình phát triển lực lượng sản xuất từ thấp tới cao, từ nông nghiệp lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bốn là, “bỏ qua” nhưng phải kế thừa và sử dụng chủ nghĩa tư bản.
Đó chính là sự phát triển đa dạng, bản sắc trong sự thống nhất và hài hòa của Việt Nam: Từ định hướng XHCN tới định hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Đó là bài học lớn về phương pháp xử lý thời và thế, khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài…, đưa lịch sử Việt Nam phát triển theo phương thức rút ngắn tự nhiên. Đó cũng là sự phát triển nhảy vọt, khi chuẩn bị thế thật toàn vẹn, chờ đợi và nắm lấy thời cơ đã thực sự chín muồi, để bứt phá. Có thể nói, đó là nghệ thuật phát triển ngắn hạn.
Đó chính là thành công cơ bản, có ý nghĩa quyết định của Đảng trong tiến trình lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 35 năm qua.
Bảo đảm đổi mới toàn diện và đột phá sáng tạo
Có thể hình dung đó là tiến trình xử lý các mối quan hệ giữa giữ vững định hướng XHCN với đề phòng (và khắc phục, nếu xảy ra) nguy cơ chệch hướng XHCN (kể cả toàn bộ lẫn cục bộ); giữa đổi mới chính trị với đổi mới kinh tế và đổi mới xã hội bảo đảm đất nước ổn định và phát triển bền vững; giữa vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước với phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện mở cửa và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với xung lực là kinh tế tri thức; giữa không ngừng phát triển lực lượng sản xuất với tiếp tục đổi mới nhằm xây dựng quan hệ sản xuất XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội; giữa phát triển kinh tế với bảo vệ và phát triển môi trường; giữa giữ vững nền độc lập tự chủ với tăng cường sự chủ động mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế theo nguyên tắc XHCN… Theo đó, 10 mối quan hệ lớn được xác định và thực thi. Đây là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn.
Quá trình nhận thức của Đảng về các mối quan hệ lớn phản ánh các quy luật của đổi mới và phát triển, trở thành những vấn đề cốt lõi của đường lối đổi mới của Đảng ta qua những biểu hiện vừa bổ sung, vừa điều chỉnh. Đó là bổ sung quan hệ mới, là điều chỉnh trật tự logic giữa các yếu tố tham gia vào quan hệ cũng như quan hệ giữa các quan hệ với nhau, từ bộ phận tới chỉnh thể hệ thống. Đường lối đổi mới là lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh mới. Đó là chủ nghĩa xã hội sinh thành trong đổi mới, phát triển và từng bước hoàn thiện từ đổi mới và thông qua đổi mới. Trong hàng loạt nhiệm vụ rất cơ bản và nặng nề cần giải quyết 3 đột phá mang tầm chiến lược.Đại hội XIII của Đảng khẳng định: 3 đột phá chiến lược (hoàn thiện đồng bộ thể chế; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng) vừa kế thừa ba đột phá chiến lược do Đại hội lần thứ XI, XII và XIII đã đề ra, vừa bổ sung, cụ thể hóa cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Vì vậy, cần huy động đầu tư nguồn lực và đặc biệt tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tạo sự chuyển biến về chất trong việc thực hiện ba đột phá chiến lược. Nói một cách hình ảnh, không ngừng phát triển tư duy chiến lược, không ngừng rộng mở tầm viễn kiến quốc gia nhằm tạo nên thế và lực mới của đất nước, xác lập chỗ đứng xứng đáng của quốc gia trên thế giới. Vì vậy, xây dựng kinh tế phải là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng phải là trọng trách then chốt, xây dựng và phát triển văn hóa làm nền tảng tinh thần xã hội vững vàng, tăng cường quốc phòng nhằm bảo vệ và giữ gìn toàn vẹn đất nước phải là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển.
Tất cả nhằm mục tiêu xây dựng đất nước hùng cường trong tầm nhìn 2030, 2045. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cảnh báo và khẳng định phương châm: “Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội”(41).
Cơ hội và thách thức hiện nay đòi hỏi phải vừa kiên định vừa phát triển sáng tạo không ngừng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước ta và xu thế vận động của thời đại, từ đó hoạch định đường lối đúng đắn, tiếp tục đề ra những giải pháp cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “… Điều hết sức quan trọng là phải luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động”(42).
Bài học không thành công của chủ nghĩa xã hội hiện thực, trong thế kỷ XX, càng cho thấy một cách thuyết phục về mối quan hệ giữa kiên định và phát triển sáng tạo học thuyết mác-xít có tầm quan trọng sống còn như thế nào. Một cách tự nhiên, trong quá trình kiên định, bảo vệ, phát triển sáng tạo và góp phần đi tiên phong hiện thực hóa độc lập chủ nghĩa Mác - Lênin, phải coi việc giữ vững, kiên định và phát triển vô điều kiện nguyên tắc tính đảng mác - xít là vấn đề có ý nghĩa thành bại, sinh tử, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa giáo điều và những khuynh hướng cơ hội, xét lại hiện đại. Trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải bảo đảm sự thống nhất giữa nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu triển khai - thống nhất giữa lý luận với thực tiễn nhằm phát triển lý luận, chủ động đáp ứng những nhu cầu phát triển của thực tiễn, dẫn dắt thực tiễn phát triển một cách đúng đắn và hiệu quả. Lấy thực tiễn để đối chiếu, kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển lý luận, chứ không phải lấy lý luận chứng minh cho thực tiễn. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người”(43). Không thể có một lý luận cách mạng nào ngoài thực tiễn cách mạng.
Trong tổng thể các quan hệ quốc tế hiện nay, không phải chỉ là sự giúp đỡ, mà cả sự hợp tác, và hợp tác không phải chỉ với các nước XHCN mà cả với các nước không XHCN. “Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước”(44) - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định.
Do đó, không thể mơ hồ cho rằng, chủ nghĩa xã hội có thể đẩy lùi chủ nghĩa tư bản một cách nhanh chóng và máy móc, càng không thể ảo tưởng về sự tồn tại hòa bình như một sự phát triển song song mơ hồ nào đó; mà trái lại, thế giới vẫn xung đột gay go, thách thức dưới mọi hình thức, tính chất và mức độ. Nhưng, dù có đối lập về mặt chế độ xã hội giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, nhưng mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa hai chế độ này là vừa đấu tranh, vừa hợp tác với nhau một cách tất yếu: vừa là đối trọng vừa là đối tác. Đó chính là con đường phát triển của thế giới hiện nay. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi”(45).
Hơn 35 năm đổi mới, đất nước tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội với một tương quan mới, vị thế mới, tốc độ mới; và, hóa thân trong công cuộc đổi mới, với tư cách vừa là người khởi xướng vừa là người lãnh đạo vừa là người tổ chức thực tiễn, Đảng ta không ngừng phát triển và trưởng thành vượt bậc một cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Công cuộc đổi mới tiến những bước quan trọng, đạt được những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, đưa nước ta bước vào một thời kỳ phát triển mới, với một vị thế mới, tương quan mới và một gia tốc mới.
Điều đó chứng tỏ: “Đường lối đổi mới... là con đường của người mở đường mới mẻ trong lịch sử... mà chưa một ai đi qua”(46). “Chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Việt Nam đã khiến quốc gia này thành nước có sức ảnh hưởng lớn nhất tại bán đảo Đông Dương”(47). “Việt Nam đang thực hiện một quá trình đổi mới đầy sáng tạo nhằm đưa chủ nghĩa xã hội thích ứng với hoàn cảnh mới, với điều kiện lịch sử và quốc tế mới. Những thành tựu to lớn của Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới vẫn giữ được những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội”(48). Nó càng chứng tỏ: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đang được hưởng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong một đất nước hòa bình và ổn định, với nền kinh tế không ngừng tăng trưởng khởi sắc. Thành công của Việt Nam cũng là thành công của toàn thế giới. Mô hình của Việt Nam đã đạt đến những thành tựu của chủ nghĩa xã hội”(49).
*
* *
Nhìn tổng quát, đó là sự thâu thái, kế thừa trực tiếp và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội Việt Nam và hệ tư tưởng chính trị truyền thống của dân tộc trong sự phát triển phong phú của tinh hoa tư tưởng tiến bộ của nhân loại, trong điều kiện hiện thực Việt Nam. Đó là hiện thân sinh động về sức mạnh và uy tín của con đường XHCN Việt Nam; kết tinh, tỏa sáng trong sức sống mạnh mẽ mang tính thời đại của chủ nghĩa xã hội Việt Nam, làm nên “Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Tổ quốc ta, dân tộc ta chưa bao giờ có được cơ đồ như ngày nay”(50). Đó con đường tương lai phát triển Việt Nam mạnh mẽ, bền vững và nhịp bước cùng các quốc gia dân tộc toàn cầu, góp phần phát triển và bảo vệ thế giới hòa bình, thống nhất, văn minh và tiến bộ.
Tổng hòa những nhân tố đó, có thể khẳng định, tầm nhìn, tư tưởng và quyết sách về chủ nghĩa xã hội Việt Nam là một trong những phương diện căn bản hợp nguồn thành hệ thống lý luận Nguyễn Phú Trọng một cách kiên định, độc lập, sáng tạo và sinh động, vì khát vọng Việt Nam hùng cường, trong mệnh lệnh phát triển của thời đại ngày nay. Đó là quá trình phát triển độc lập chủ nghĩa Mác - Lênin, góp phần làm phong phú chủ nghĩa xã hội khoa học và phát triển kho tàng lý luận cách mạng thế giới.
Đó chính là những thông điệp cơ bản với những phương diện tư tưởng lý luận cốt lõi về chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thay mặt Đảng ta, trịnh trọng gửi tới toàn thể Nhân dân ta và các quốc gia cùng nhân loại trên toàn thế giới.
__________
(39) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 22-23.
(40) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 25.
(41)(Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 36.
(42) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 37.
(43) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 27
(44) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 18.
(45) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 37.
(46) Lời chào mừng Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 57.
(48) Z.B. Ca-re-ra: Thắng lợi của Việt Nam là thắng lợi của cả loài người, Báo Nhân Dân, số ra ngày 26-9-2000, tr. 3.
(49)Website: bqp.vn, mod.gov.vn/Dư luận quốc tế đánh giá cao về Đại hội lần thứ XII của Đảng, ra ngày 31-01-2016
(50)Nguyễn Phú Trọng: Quyết tâm cao, biện pháp quyết liệt nhằm tạo chuyển biến mới về xây dựng Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr. 33.