Ngày 24.3, tại tỉnh Đắk Lắk, Bộ GD-ĐT tổ chức Hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Tây Nguyên không còn “xã trắng” về giáo dục mầm non
Báo cáo về thực trạng giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên giai đoạn 2011-2022, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Văn Phúc cho biết, trong 10 năm qua, hệ thống mạng lưới trường lớp học vùng Tây Nguyên đã được củng cố và phát triển rộng khắp, đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người dân. Về cơ bản, Tây Nguyên không còn “xã trắng” về giáo dục mầm non, mọi thôn bản đều có lớp mầm non. Tất cả các xã đều có trường tiểu học.
Hầu hết các xã đã có trường THCS, các huyện đều có trường THPT. Nhiều địa phương đã xây dựng các trường THCS, THPT liên xã. Hiện toàn vùng có 3.984 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên.
Đáng chú ý, tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đến trường của Tây Nguyên đạt 99,6% - cao hơn so với bình quân cả nước và đứng thứ 3 toàn quốc. 100% trẻ em 5 tuổi tại các cơ sở giáo dục mầm non được học 2 buổi/ngày - cao hơn bình quân cả nước và cao hơn cả vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
Tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi ở cả ba cấp học trong những năm qua đều gia tăng, tương đương so với mức bình quân chung cả nước và tương đương với các vùng khác.
Năm học 2020-2021, 5/5 tỉnh khu vực Tây Nguyên duy trì và đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học. Tỷ lệ cơ sở giáo dục tiểu học tổ chức dạy học 2 buổi/ngày đạt 94,1%; Tỷ lệ cơ sở giáo dục THCS tổ chức dạy học 2 buổi/ngày đạt 84%, tăng gần gấp đôi so với cách đây 10 năm.
Toàn vùng có 59 trường phổ thông dân tộc nội trú và 68 trường phổ thông dân tộc bán trú. Trong đó, có 49/59 trường phổ thông dân tộc nội trú (chiếm tỷ lệ 83,05%) được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng giáo dục của các trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú được cải thiện qua từng năm học.
“Mặc dù có thu nhập bình quân đầu người xếp thứ 5 trên 6 vùng của cả nước, chỉ cao hơn vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, tuy nhiên, Tây Nguyên lại là một trong những vùng có tốc độ phát triển giáo dục ngoài công lập cao nhất cả nước. Năm học 2020 - 2021, toàn vùng có 261 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông ngoài công lập, tăng 150 cơ sở giáo dục so với cách đây 10 năm”, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Văn Phúc thông tin.
Cũng theo Thứ trưởng, vùng Tây Nguyên hiện có 9 cơ sở giáo dục đại học và phân hiệu của các trường đại học, 4 trường cao đẳng sư phạm và 107 cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Quy mô sinh viên đại học của vùng là 30.221 sinh viên. trong đó, sinh viên là người dân tộc thiểu số chiếm 13,3%. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 50,2%.
Dù đã có nhiều nỗ lực, song với điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, chất lượng giáo dục vùng Tây Nguyên còn thấp hơn mặt bằng chung của cả nước. Hầu hết các chỉ tiêu về chất lượng giáo dục của vùng đều thấp hơn chỉ tiêu chung của cả nước và các khu vực khác. Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực dân tộc thiểu số chưa đáp ứng được yêu cầu.
Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học tuy tăng những vẫn còn thấp so với cả nước. Thứ trưởng đánh giá, đây là rào cản trong phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương trong vùng.
Giáo dục Tây Nguyên đặt mục tiêu đến năm 2030, các chỉ tiêu về chất lượng giáo dục, đào tạo của vùng Tây Nguyên tiệm cận với mặt bằng chung của cả nước. Đến năm 2045, phát triển giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên tiệm cận với các vùng khác trên cả nước và từng bước tiệm cận với nền giáo dục trong khu vực.
Tăng dân số là “bài toán khó giải” chung của giáo dục Tây Nguyên
Tại Hội nghị, Bộ GD-ĐT đã ghi nhận ý kiến thảo luận của lãnh đạo 5 tỉnh vùng Tây Nguyên và đại diện một số trường đại học đóng trên địa bàn vùng.
Một trong những khó khăn được cả 5 tỉnh trao đổi là tỷ lệ tăng dân số tự nhiên và cơ học do di dân tự do ở các tỉnh đều rất cao. Phó Chủ tịch tỉnh Đắk Nông Tôn Thị Ngọc Hạnh cho biết, mỗi năm tỉnh Đắk Nông tăng thêm 35.000 học sinh do di dân tự do. Do đó, giáo viên đã thiếu lại càng thiếu hơn.
Các kiến nghị được địa phương gửi tới Quốc hội, Chính phủ, Bộ GD-ĐT và các Bộ, ngành tập trung vào chính sách phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo; tăng cường các nguồn đầu tư cho vùng dân tộc thiểu số, vùng biên giới khó khăn. Theo một số địa phương, hiện nay đã có nhiều chương trình mục tiêu quốc gia cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhưng việc lồng ghép cho giáo dục còn hạn chế, khó thực hiện.
Bên cạnh đó, việc cắt giảm biên chế 10% tại các địa phương, trong đó áp dụng cả với ngành giáo dục đang gây ra khó khăn cho các địa phương vốn đã thiếu giáo viên ở các bậc học. Vì vậy, các địa phương đề nghị Bộ Nội vụ xem xét vấn đề này.
Tuổi nghỉ hưu của giáo viên mầm non để đảm báo với đặc thù nghề nghiệp vất vả và đào tạo giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số nhằm tạo nguồn tuyển cũng là những nội dung được các tỉnh vùng Tây Nguyên kiến nghị.
Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Hầu A Lềnh chia sẻ với khó khăn của giáo dục Tây Nguyên; đồng thời đánh giá cao sự cố gắng của cấp uỷ, chính quyền các cấp, sự nỗ lực của các thầy cô giáo, từng gia đình trong việc chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo.
Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc, một số vấn đề mà giáo dục dân tộc đang cần quan tâm giải quyết trong giai đoạn hiện nay gồm: chính sách cho học sinh ở các khu vực ưu tiên; dạy chữ cho học sinh dân tộc thiểu số; phát triển nguồn giáo viên tại chỗ là người dân tộc thiểu số; bảo tồn, truyền dạy bản sắc văn hoá dân tộc…
Mong muốn Tây Nguyên có thêm nhiều trường đại học, phân hiệu trường đại học nhằm đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại chỗ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Hầu A Lềnh cho biết sẽ tiếp thu kiến nghị của các địa phương và phối hợp với Bộ GD-ĐT xem xét điều chỉnh và tham mưu điều chỉnh các chính sách sao cho phù hợp. Từ đó, tạo điều kiện cho giáo dục vùng Tây Nguyên phát triển.
Tây Nguyên cần cấp bách nâng cao tỷ lệ người học đại học
Phát biểu kết luận Hội nghị, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh, phát triển giáo dục cả nước có những chính sách chung, vấn đề chung, nhưng nhóm theo từng vùng miền lại mang những đặc trưng, đặc thù riêng. Việc thấy được tính đặc thù của vùng miền rất quan trọng trong thiết kế và thực thi chính sách.
Đề cập đến những thuận lợi, đặc điểm riêng của giáo dục Tây Nguyên, Bộ trưởng cho rằng, trong 6 vùng kinh tế - xã hội của cả nước, Tây Nguyên là vùng được Đảng, Quốc hội, Chính phủ đặc biệt quan tâm. Cả nước quan tâm, yêu quý và hướng về Tây Nguyên. Đó chính là lợi thế.
Bên cạnh đó, khu vực Tây Nguyên tuy là núi cao nhưng không quá khó khăn, chia cắt địa hình như vùng Tây Bắc, có nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế, còn nhiều tiềm năng chưa được khơi dậy, phát huy hết. Cư dân ở nhiều nơi trong vùng có kinh tế khá, thuận lợi cho xã hội hoá giáo dục.
Từ góc độ giáo dục, theo Bộ trưởng, đây là vùng người dân, trẻ em ngoan, hiền lành, chất phác, “thuận cho việc trồng người”. Nền giáo dục chúng ta đang triển khai, hướng đến là lấy việc phát triển con người về nhân cách, đạo đức và hướng đến con người hạnh phúc.
Với đặc điểm của một vùng nhiều khó khăn, Bộ trưởng nhìn nhận, giáo dục Tây Nguyên đang phải thực thi nhiệm vụ nặng nề hơn so với các vùng khác: vừa phải giải quyết yêu cầu khó theo kịp các vùng khác nhưng lại phải thực hiện đổi mới như mọi vùng, cùng với đó là làm nhiệm vụ với đồng bào dân tộc.
“Cộng lại nếu vùng khác cố gắng 1, chúng ta cố gắng 2 - 3. Đây là đặc điểm của sự nghiệp giáo dục Tây Nguyên và là thách thức nặng nề”, Bộ trưởng nói.
Cũng theo Bộ trưởng, đặc điểm của một khu vực đa dạng dân tộc, văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng đòi hỏi phải bảo lưu giá trị văn hoá ấy; đặc điểm của một vùng lấy sản xuất nông nghiệp làm chủ yếu đòi hỏi nâng cao dân trí là yêu cầu cấp bách. Bên cạnh đó, đặc điểm của một vùng có tỷ lệ người dân theo học bậc đại học thấp nhất cả nước là cần cấp bách nâng cao tỷ lệ người đi học đại học để có nguồn nhân lực chất lượng cao.
Trao đổi về một số nhiệm vụ lớn đặt ra trước mắt, Bộ trưởng nhấn mạnh tới hoạt động tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và hoạt động giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Bộ trưởng đề nghị, các địa phương sẽ có những tổng kết, đánh giá đầy đủ, khách quan những việc làm được, chưa làm được và kiến nghị tối đa những vấn đề còn vướng mắc và mong muốn.
Với Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đang triển khai trên cả nước, Bộ trưởng lưu ý tới tính quá trình của việc thực hiện để không cứng nhắc, không nóng vội trong đánh giá cũng như có lộ trình thực hiện. Tính chủ động trong triển khai chương trình mới của từng địa phương, nhà trường, thầy cô giáo cũng được Bộ trưởng lưu ý. Bộ trưởng mong muốn, các địa phương sẽ dành sự ưu tiên cao độ đầu tư cơ sở vật chất, giáo viên, nhân lực cho hai năm 2023-2024 để “nhịp đầu tư rơi đúng thời điểm triển khai quan trọng nhất”.
“Trong quá trình triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới, các tỉnh khó khăn cần đặc biệt lưu ý, nếu triển khai không khéo, không tập trung nguồn lực có thể làm gia tăng khoảng cách giữa các tỉnh và các vùng miền về giáo dục”, Bộ trưởng nói, đồng thời đề nghị lãnh đạo các địa phương quan tâm kiểm tra, đốc thúc, chỉ đạo ráo riết việc triển khai chương trình mới; các Sở GD-ĐT tham mưu kịp thời để tháo gỡ khó khăn.
Một số vấn đề khác như thực hiện đúng 20% nguồn chi ngân sách cho giáo dục; tập trung cho kiên cố hoá trường học; sắp xếp quy thận trọng, hợp lý; phát huy hơn nữa xã hội hoá giáo dục, trong đó vừa quan tâm, tạo điều kiện, vừa thực hiện đầy đủ quản lý nhà nước đối với công tác xã hội hoá… cũng được Bộ trưởng lưu ý với các tỉnh Tây Nguyên.
“Đối với quốc gia, phát triển giáo dục và đào tạo là giải pháp đột phá để có nguồn ngân lực chất lượng cao. Đối với Tây Nguyên còn nhiều khó khăn, để phát triển kinh tế - xã hội nhân lực càng là giải pháp quan trọng để phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Mong rằng bằng giải pháp tổng thể, Tây Nguyên sẽ từng bước thực hiện thành công các mục tiêu phát triển giáo dục. Bộ GDĐ-T và các địa phương sẽ cùng cố gắng cho sự phát triển chung của giáo dục và giáo dục Tây Nguyên”, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho hay.