"Bình dân học vụ số" - cánh cửa để “dân biết, dân hiểu, dân làm chủ” các công cụ số
Trong dòng chảy không ngừng của thời đại, Việt Nam đang ở giữa một bước ngoặt chiến lược - đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, xây dựng một nền kinh tế tri thức vững mạnh, đưa dân tộc đến gần hơn với khát vọng hùng cường vào năm 2045.

Trong tiến trình ấy, một nhiệm vụ trọng đại đã được xác lập và đang dần hiện thực hóa: công cuộc “Bình dân học vụ số” - một chương trình lớn mang tầm chiến lược, do Tổng Bí thư Tô Lâm định hướng, khơi nguồn từ tinh thần dân tộc, truyền thống hiếu học và lý tưởng phát triển bền vững. Hồi tưởng và tiếp nối một lý tưởng lớn “Bình dân học vụ” - khái niệm từng làm rạng rỡ những năm tháng đầu tiên của nền độc lập dân tộc sau năm 1945, khi đất nước đứng lên chống lại nạn mù chữ. Hôm nay, với phiên bản “số hóa”, Việt Nam không chỉ xóa mù chữ theo nghĩa truyền thống, mà đang hướng tới xóa “mù số”, “mù công nghệ”, trang bị cho người dân năng lực tiếp cận, sử dụng và làm chủ các công cụ số trong mọi mặt đời sống.
Phong trào "Bình dân học vụ số" có ý nghĩa to lớn và giá trị nhân văn sâu sắc đối với sự phát triển đất nước, thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong công cuộc phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số thông minh, văn minh và nhân văn; phát huy truyền thống hiếu học, ham học hỏi và tinh thần học tập suốt đời mà Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhắc nhở. Phong trào "Bình dân học vụ số" phải là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, mệnh lệnh từ trái tim, tư duy thông minh của khối óc và hành động quyết liệt từ mỗi người dân.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính
Tổng Bí thư Tô Lâm, với tầm nhìn chiến lược và quyết tâm chính trị cao, đã xác định rằng: muốn phát triển đất nước nhanh, bền vững và mang tính tự chủ, thì không chỉ cần nguồn lực kinh tế mà quan trọng hơn là nguồn lực con người. Mọi người dân, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, đều phải được trao cơ hội học tập, tiếp cận công nghệ số, từ đó tham gia vào nền kinh tế số và xã hội số một cách chủ động, tự tin.
Trong thời đại chuyển đổi số, tri thức không còn là đặc quyền của một nhóm người, mà cần được phân phối bình đẳng, phổ cập như ánh sáng mặt trời. “Bình dân học vụ số” chính là sự mở rộng và nâng cấp tư tưởng “ai cũng được học, ai cũng phải học” của thế kỷ trước - để hôm nay, “ai cũng có thể lên mạng, ai cũng biết làm chủ công nghệ, và ai cũng góp phần vào sự phát triển đất nước”.
Chương trình này không chỉ là một chiến dịch truyền thông hay dạy kỹ năng tin học đơn thuần. Đó là một hành trình nuôi dưỡng năng lực số cho từng người dân: từ cách sử dụng điện thoại thông minh để giao tiếp, học tập; đến việc biết truy cập dịch vụ công trực tuyến; thậm chí xa hơn, là biết kinh doanh online, làm việc từ xa, và tham gia vào các mô hình kinh tế mới như kinh tế chia sẻ, kinh tế sáng tạo.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ, trong giai đoạn hiện nay, việc phát động thực hiện phong trào "bình dân học vụ số" là một trong những nhiệm vụ cần làm ngay, yêu cầu nhanh chóng phổ cập tri thức cơ bản về chuyển đổi số cho toàn dân đang đặt ra cấp thiết. Theo đó, mọi người trong xã hội, không phân biệt tuổi tác, địa vị xã hội, trình độ học vấn… ai thiếu hụt kiến thức, kỹ năng về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thì có trách nhiệm học tập để bù lấp sự thiếu hụt đó; với tinh thần tự học là chính và có thể học mọi lúc mọi nơi, học trực tiếp, học trực tuyến; tự học ở nhà, học ở nơi làm việc, cũng có thể học trên tàu hỏa, trên máy bay, trên xe ô tô... Với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị và toàn dân, Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng đạt được thành tựu trong lĩnh vực này, vì sự phát triển bền vững của gia đình, xã hội, vì sự trường tồn của quốc gia và dân tộc.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn
Thách thức lớn - cơ hội lớn
Dĩ nhiên, con đường không trải đầy hoa hồng bởi hạ tầng số còn chênh lệch giữa các vùng miền; kỹ năng số trong cộng đồng chưa cao; nhiều người cao tuổi, người yếu thế vẫn xa lạ với thế giới trực tuyến. Nhưng chính vì thế, công cuộc “bình dân học vụ số” càng trở nên cấp thiết và nhân văn. Nó không chỉ là câu chuyện công nghệ, mà còn là bài toán công bằng xã hội, là sự khẳng định tinh thần “không ai bị bỏ lại phía sau” trong tiến trình phát triển quốc gia.
Nếu thế kỷ XX là thế kỷ của “khai dân trí” thì thế kỷ XXI là thời kỳ “khai trí số” - nơi mà mỗi công dân là một mắt xích trong mạng lưới thông minh, nơi mà sức mạnh của dân tộc được đo không chỉ bằng tài nguyên thiên nhiên, mà bằng khả năng làm chủ dữ liệu, công nghệ và tri thức.
“Bình dân học vụ số” - dưới sự lãnh đạo của Đảng và định hướng của Tổng Bí thư Tô Lâm - đang khơi dậy một làn sóng học tập mới, nơi con người là trung tâm, công nghệ là phương tiện, và sự tiến bộ toàn diện là đích đến.
Đó cũng chính là tinh thần của công nghiệp hóa - hiện đại hóa kiểu Việt Nam: không chỉ đổi mới kỹ thuật, mà còn đổi mới tư duy, nâng tầm dân trí, và lan tỏa năng lực sáng tạo đến từng ngõ xóm, từng mái nhà. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa không phải là cuộc chạy đua máy móc, mà là hành trình vươn lên bằng trí tuệ, bằng ý chí tự cường và khát vọng hội nhập.
Với “bình dân học vụ số”, Việt Nam đang viết tiếp trang sử vẻ vang của một dân tộc không ngừng vươn lên từ gian khó - không chỉ để thoát nghèo, mà để làm chủ tương lai.