Đổi mới sự phát triển lý luận - 35 năm nhìn lại và thách thức:

Bài 2: Đổi mới tư duy và mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam

TS. NHỊ LÊ - Nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản

Hơn 77 năm cầm quyền, trong đó có hơn 35 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã tích luỹ được không ít bài học vô giá cả trên hai bình diện thành công và chưa thành công. Thành tựu lý luận nổi bật của hơn 35 năm đổi mới là chúng ta đã từng bước làm rõ toàn diện hơn, sâu sắc hơn và thấu triệt hơn những vấn đề cơ bản về tính quy luật của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong thời đại ngày nay.

Sự kết tinh tập trung, cụ thể, sinh động về lý luận cầm quyền của Đảng

Nhìn lại gần 20 năm, tại 4 kỳ Đại hội, Đảng ta hết sức chú trọng tổng kết những vấn đề cơ bản trên các phương diện lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức bao trùm toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội đất nước trong công cuộc đổi mới. Đặc biệt, "những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn có giá trị lớn" và Đại hội IX, XI, XII, XIII của Đảng đã rút ra những bài học chủ yếu nhất. Có thể nói, đó là sự kết tinh tập trung, cụ thể và sinh động về mặt lý luận cầm quyền của Đảng.  

Nhìn lại 35 năm, bước đầu có thể hình dung khái lược những thành tựu lý luận mới mẻ về vấn đề Đảng cầm quyền được thể hiện một cách tập trung trên 10 bình diện chủ yếu: Quy luật cầm quyền; Quan niệm cầm quyền; Cơ sở cầm quyền; Phương lược cầm quyền; Nội dung cầm quyền; Cơ chế cầm quyền; Phương thức cầm quyền; Nguồn lực cầm quyền; Môi trường cầm quyền; và Nguy cơ đối với cầm quyền.

Tất cả những vấn đề có tính quy luật đó tạo nên vị trí, năng lựcbản lĩnh cầm quyền của Đảng quyết định những thành công của 35 năm đổi mới. Qua đó, Đảng không ngừng trưởng thành toàn diện, tiếp tục đủ sức gánh vác những trọng trách mới của lịch sử dân tộc giao phó lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Thành tựu hơn 35 năm đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, có thể nói mang ý nghĩa quan trọng. Một trong những nguồn gốc của những thành tựu ấy, Đảng ta xây dựng cho mình một lý thuyết đổi mới khoa học, cách mạng và phù hợp dẫn dắt đất nước vững tin tiếp tục cuộc hành trình tất yếu trên con đường XHCN.  

Nếu tự đặt mình vào những buổi đầu từ khi bắt tay vào công cuộc đổi mới “... Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực khắc phục khó khăn, kiên trì tìm tòi, khai phá con đường đổi mới chưa có một khuôn mẫu cho trước...” thì mới có thể thấy hết được ý nghĩa của vấn đề giải phóng và tự giải phóng vào thời điểm phức tạp, cam go có tính chất bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trước hết, lý thuyết đổi mới là sự kế thừa lịch sử dân tộc, đồng thời cũng chính là sự giải phóng tự giải phóng khỏi những “vết mòn” lịch sử qua các cuộc canh tân, cải cách đất nước trước đây, nhưng với một nhãn quan mới, ở một tầm cao mới, với chất lượng mới, phù hợp với thời đại mới.

Nếu chỉ xét lịch sử đất nước trong vòng 5 thế kỷ trở lại đây thì đã có hàng loạt lý thuyết bàn định về sự cải cách, canh tân, khát vọng đưa dân tộc tiến lên. Đó là những cuộc cải cách của Hồ Quý Ly (thế kỷ XV), của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch (thế kỷ XIX) và những dự án canh tân của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các chí sĩ yêu nước (đầu thế kỷ XX)... Nhưng tất cả những lý thuyết, dự án về các cuộc cải cách, canh tân ấy đều thất bại vì chủ quan, khiếm khuyết do, hoặc duy chỉ hướng nội hoặc duy chỉ hướng ngoại hoặc bị cản trở bởi sự hẹp hòi của nhãn quan phong kiến chật hẹp và khuôn khổ trói buộc của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến; tức là thiếu những điều kiện bảo đảm cần và đủ về tiền đề vật chất và tinh thần cho lý thuyết cải cách, canh tân thành công.

Vượt qua những khiếm khuyết đó, với trọng tâm là giữ vững tư duy độc lập và sáng tạo, kiên trì và vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể nước ta, rút kinh nghiệm mấy thập niên qua, lý thuyết đổi mới đã được xác lập. Đó là sự kết tinh những nhu cầu nội tại từ bên trong đất nước (đổi mới là vấn đề sống còn) đón gặp với xu thế phát triển (trên cơ sở không ngừng điều chỉnh) của thế giới, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới là một cuộc giải phóng mình khỏi những tư duy cũ, những hành động vừa nóng vội, chủ quan, vừa bảo thủ, trì trệ; từng bước thoát khỏi xiềng xích của chủ nghĩa giáo điều đã kiềm tỏa mấy chục năm qua; là trở lại nhận thức của chủ nghĩa xã hội một cách đúng đắn như nó cần phải có từ đó lựa chọn phương cách tiến hành phù hợp, hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Người châu Á - tuy bị người phương Tây coi là lạc hậu - vẫn hiểu rõ hơn hết sự cần thiết phải cải cách toàn bộ xã hội hiện tại”(15).

Đổi mới tất yếu phải theo định hướng XHCN

Mặt khác, lý thuyết đổi mới chính là sự giải thoát khỏi những khuynh hướng giáo điều, bảo thủ, thực dụng và cơ hội đủ loại. Đảng ta khẳng định: đổi mới là vấn đề sống còn của đất nước, nhưng đồng thời thực tiễn lại cho thấy, nếu đổi mới chệch con đường XHCN thì vận mệnh của đất nước có khi không cứu vãn được. Vì vậy, đổi mới tất yếu phải theo định hướng XHCN. Tư duy độc lập và sáng tạo của chúng ta phải đặt trên nền móng của sự nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn cách mạng nước ta, trông ra thế giới và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại. Điều cần chú ý là, bám sát được thực tiễn của đất nước và của thời đại trên cơ sở lập trường chính trị kiên định, không bảo thủ dừng lại và không dao động, ngả nghiêng trước thử thách mới. Rõ ràng, lý thuyết đổi mới hàm chứa những vấn đề đó trên cơ sở giữ vững các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách phù hợp, góp phần nhận thức đúng đắn và sâu sắc về chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là cuộc giải phóng có ý nghĩa cách mạng về mặt ý thức xã hội thông qua cuộc đổi mới về tư duy và cuộc giải phóng về phương diện lực lượng vật chất xã hội, mà trước hết là lực lượng sản xuất. Diễn đạt một cách khái quát rằng: “Đổi mới là thử nghiệm tìm ra mô hình phát triển phù hợp với tính cách riêng của Việt Nam, tức là sự tìm ra cho mình con đường tất yếu”(16).

Càng kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, càng xuất phát từ chính mình và thời đại, càng độc lập và sáng tạo, chúng ta càng nhiều cơ hội và khả năng tìm thấy con đường và phương pháp giải quyết thành công những vấn đề khó khăn, phức tạp. Đó là linh hồnphương châm của cuộc giải phóng tư duy và hành động của chúng ta.   

Trước sự đổ vỡ một mảng lớn của hệ thống XHCN trên thế giới và trước cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trong nước, việc nhận thức mục tiêu, con đường đưa đất nước tiến lên và việc xác định đúng mô hình, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một vấn đề rất quan trọng và cấp bách, là trung tâm của lý thuyết đổi mới. Chúng ta tiếp tục khẳng định mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là sự lựa chọn duy nhất đúng của cách mạng nước ta. Vấn đề này đã được nêu trong Chánh cương vắn tắt ngay từ năm 1930. Lý thuyết đổi mới thêm một lần nữa phân tích rõ tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việc Đảng ta và nhân dân ta kiên trì mục tiêu chủ nghĩa xã hội là nội dung rất cơ bản của công tác lý luận tư tưởng hiện nay, nhất là trong lúc không ít người cho rằng việc lựa chọn của ta là “nhầm”, là “vội”, thậm chí họ còn cổ xúy cho chủ nghĩa tư bản, lôi kéo một số người dao động trước sự tan rã của các quốc gia XHCN hòng phủ nhận tương lai của chủ nghĩa xã hội thế giới.

 Những quan niệm đúng đắn và phù hợp về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trên thực tế đã chứng tỏ sức sống của nó, tiếp tục đưa công cuộc đổi mới tiến lên. Đảng ta xác định mô hình xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng gồm 6 đặc trưng, rồi 8 đặc trưng và con đường để thực hiện chính là 7 phương hướng cơ bản, rồi xử lý 8 mối quan hệ lớn (2011) và 10 mối quan hệ chiến lược (2016)... Đặc biệt, ở đây cần phải nhấn mạnh rằng, bên cạnh việc tuân theo những quy luật phổ biến của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta khéo áp dụng chúng, cân nhắc đặc điểm của dân tộc và đồng thời xác lập những hình thức, bước đi cụ thể, với 3 khâu đột phá chiến lược bảo đảm thúc đẩy phát triển xung quanh 4 trụ cột đổi mới căn bản, để tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp. Đó là một trong những nét cơ bản nhất làm nên giá trị lịch sử của lý thuyết đổi mới. Đó chính là sự thể hiện phương pháp tư duy biện chứng mác-xít trong khi không được quên cái chung, phải nhận rõ đặc thù và đây chính là cơ sở của mọi sự sáng tạo của Đảng và nhân dân ta.

Thực tế qua hơn 35 năm đổi mới, bước đầu đã khẳng định sức mạnh hiện hữu và tiềm tàng của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tính đúng đắn của con đường XHCN được lý thuyết đổi mới hoạch định. Dư luận quốc tế đánh giá: “Bất chấp những lời tuyên bố của chủ nghĩa đế quốc về “sự kết thúc của chủ nghĩa cộng sản” cách đây vài năm, ngày nay điều này càng rõ ràng là lý tưởng cộng sản vẫn rất sống động, vẫn có những nước như Việt Nam đang kiên trì đường hướng XHCN, có các lực lượng chính trị quan trọng trên tất cả các lục địa đang hướng tới việc xây dựng một xã hội mới không có người bóc lột người như là một mục đích thiết yếu của nền văn minh loài người”(17).

Với tất cả sự nỗ lực của Đảng và nhân dân ta, sự phát triển của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một đóng góp vào việc thúc đẩy chủ nghĩa xã hội khoa học phát triển độc lập ở Việt Nam, đã góp phần bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”(18).

Đó chính là nét đặc sắc, là nguồn sức mạnh của lý thuyết đổi mới của chúng ta.

____________

(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, 2011, Hà Nội, t. 1, tr. 35

(16) Việt Nam trong thế kỷ XX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 1, tr. 203
(17) Lời chào mừng Đại hội VIII, Sđd, tr. 100

(18) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 1, tr. 465

Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045
Chính trị

Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045

Lời Tòa soạn: Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, chưa bao giờ như hiện nay, vấn đề xây dựng và thực thi triết lý phát triển Đất nước lại đặt ra và thách thức gay gắt, đòi hỏi Việt Nam một sự nỗ lực vượt bậc, toàn diện. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, tăng tốc và kỳ vọng phát triển vượt bậc. Do đó, việc kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045 trở nên vừa cấp bách vừa mang tầm chiến lược. Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản với chủ đề: “Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045”.

Bài cuối: Biến quyết tâm thành hành động thực tiễn
Chính trị

Bài cuối: Biến quyết tâm thành hành động thực tiễn

Nghị quyết số 57 thể hiện cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc huy động sức mạnh toàn diện của hệ thống chính trị và xã hội nhằm tạo xung lực mới cho phát triển đất nước. Nghị quyết xác định đây là “cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện” cần được triển khai “quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài” với những giải pháp đột phá​. Nhiệm vụ hiện nay là biến quyết tâm đó thành hành động thực tiễn. Muốn vậy, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ của toàn hệ thống chính trị và các thành phần kinh tế – xã hội, từ quyết tâm của người lãnh đạo cho đến nỗ lực của từng người dân.

Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TP. Hồ Chí Minh Nguyễn Thanh Nghị phát biểu tại Hội thảo
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận - nền tảng cho mọi quyết sách

Nhấn mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận là nền tảng cho mọi quyết sách, tại Hội thảo khoa học quốc gia công tác lý luận của Đảng và những định hướng nghiên cứu quan trọng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, các đại biểu đề nghị, cần đẩy mạnh gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, các cơ quan nghiên cứu cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để triển khai các dự án thí điểm, từ đó rút ra bài học thực tiễn. Xây dựng mạng lưới học giả, nhà nghiên cứu hàng đầu nhằm phát triển các giải pháp lý luận sáng tạo.

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu tham dự phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Xây dựng Đảng về văn hóa bắt đầu từ chính mỗi đảng viên

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Trong rất nhiều công việc, cấp bách 6 trọng sự. Trước tiên là bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lenin - “lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi”(24) - Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định - một cách độc lập, sáng tạo nhằm cung cấp tri thức lý luận chính trị hết sức căn bản; đồng thời, đào tạo đảng viên một cách toàn diện về tri thức văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, tri thức lãnh đạo, quản lý, các kỹ năng “mềm”, năng lực công nghệ hiện đại… làm nền tảng xây dựng và phát triển văn hóa Đảng và văn hóa của đảng viên.

Toàn cảnh Phiên khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Chính trị

Bài 2: Dự báo những nhân tố phi văn hóa, phản văn hóa trong xây dựng, thực hành văn hóa của đảng viên

“Đảng ta không phải từ trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”(22). Hơn nữa, “Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng”(23).

Toàn cảnh Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Chính trị

Bài 1: Văn hóa Đảng - dòng chủ lưu và phát triển trong dòng chảy văn hóa dân tộc

Lời Tòa soạn: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, việc xây dựng và phát triển văn hóa đảng viên không chỉ là yêu cầu cấp thiết, mà còn là nền tảng cho sự bền vững của Đảng và dân tộc. Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, Nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản với chủ đề “Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh – Phát triển văn hóa của đảng viên trong kỷ nguyên mới”.

toàn cảnh Hội thảo
Chính trị

Lý luận phải đồng hành, vươn lên dẫn đường cho thực tiễn trong kỷ nguyên mới

Tại Hội thảo quốc gia về Công tác lý luận của Đảng và những định hướng nghiên cứu quan trọng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, các đại biểu nhấn mạnh, cần tiếp tục quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn gắn với đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu một cách thiết thực, khoa học, hiệu quả, bảo đảm lý luận phải đồng hành với thực tiễn và vươn lên dẫn đường cho thực tiễn trong kỷ nguyên mới.

Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII thảo luận nhiều vấn đề quan trọng chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng.
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Hết sức bền bỉ, công phu, tăng "sức đề kháng" để bảo vệ Đảng

Xây dựng văn hóa trong Đảng phải hết sức bền bỉ, công phu, thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp. Phải làm cho toàn Đảng, từng tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên có nhận thức đúng về văn hóa Đảng, làm văn hóa Đảng trở thành những giá trị đặc trưng cho một đảng cách mạng chân chính và hiện đại, thành nhu cầu trong Đảng và của đảng viên. Phải làm cho Đảng tăng sức đề kháng để bảo vệ mình vì suy đến cùng sức mạnh của Đảng là sức mạnh về văn hóa.

Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Quốc hội và Cử tri

Bài 3: Xây dựng những cán bộ tốt, đảng viên tốt

Trong bối cảnh hiện nay, nước ta phải hướng đến xây dựng những cán bộ tốt hay cụ thể hơn, đó là những đảng viên tốt. Đảng chú trọng công tác cán bộ vừa là quyền hạn nhưng cũng là trách nhiệm trước sự tồn vong của Đảng, sự hưng thịnh của đất nước, của chế độ. Để đi tới được kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thì Đảng phải quản trị cho được đội ngũ cán bộ thật sự toàn diện, nghiêm minh. Có được cán bộ, đảng viên tốt, văn hóa trong Đảng cũng tăng lên theo tỷ lệ thuận.

Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa.
Chính trị

Bài 2: Mỗi đảng viên tự nêu gương thì hàng triệu đảng viên là những tấm gương sáng

Để tiếp tục phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên trong xây dựng văn hóa Đảng, Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9.5.2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới đã được ban hành. Có thể thấy, nếu mỗi cán bộ, đảng viên, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hiểu rõ và tự giác thực hiện đầy đủ Quy định 144 - QĐ/TW, thì đây chính là công cụ hữu hiệu để ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, sự xói mòn về phẩm chất đạo đức, tệ tham ô, tham nhũng, lãng phí, xa rời quần chúng. Mỗi cán bộ, đảng viên tự nêu gương thì hàng triệu đảng viên sẽ là những tấm gương sáng, toàn Đảng sẽ thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với Nhân dân.

Toàn cảnh Hội thảo khoa học quốc gia những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng văn hóa trong Đảng trong giai đoạn mới ngày 15.1.2025
Chính trị

Bài 1: Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - hồn cốt của văn hóa trong Đảng

Lời Tòa soạn: Văn hóa trong Đảng là những giá trị văn hóa tốt đẹp mà Đảng ta đã lựa chọn, vun đắp, xây dựng, đổi mới và phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đó là những giá trị văn hóa được kết tinh từ truyền thống văn hóa dân tộc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; được tiếp thu, bổ sung những giá trị tinh hoa của văn hóa nhân loại trong thời đại mới, với nền tảng, hạt nhân là chủ nghĩa Mác-Lênin; được khơi nguồn, soi sáng và dẫn dắt bởi tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; được kiểm nghiệm, khẳng định trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Báo Đại biểu Nhân dân giới thiệu loạt bài về "Xây dựng văn hóa trong Đảng" với mong muốn cung cấp thêm thông tin về chủ đề đặc biệt quan trọng này.

Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang phát biểu khai mạc Hội nghị quán triệt, triển khai Luật Công đoàn 2024. Ảnh: Hải Nguyễn
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Minh chứng hùng hồn nhất bác bỏ những luận điệu xuyên tạc

Trước mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch và việc Việt Nam buộc phải cụ thể hóa quy định thành lập “Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp” theo cam kết quốc tế, tổ chức Công đoàn Việt Nam cần nâng cao vai trò, sứ mệnh của mình, để người lao động tin tưởng, gắn bó với “mái nhà chung” – nơi đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ. Đây là câu trả lời xác đáng, minh chứng hùng hồn nhất bác bỏ những luận điệu xuyên tạc.

Liên đoàn Lao động tỉnh Kiên Giang bàn giao nhà Mái ấm Công đoàn tặng đoàn viên công đoàn. Ảnh: Mỹ Linh
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 4: Vững tin trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc

Ngoài đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích đoàn viên, người lao động, Công đoàn Việt Nam luôn đi đầu phát động, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước; là chỗ dựa tinh thần vững chắc để công nhân, lao động tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, tin vào sứ mệnh của tổ chức Công đoàn Việt Nam. Qua đó, tăng sức đề kháng cho công nhân lao động trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trên không gian mạng.

Người biểu tình đốt phá nhà ở thủ đô Dhaka, Bangladesh vào tháng 7.2024
Chính trị

Bài 3: Mưu đồ chiến lược “không đánh mà thắng”

Việc các thế lực phản động trong nước, quốc tế câu kết với nhau, dùng con bài dân chủ, nhân quyền mà trực tiếp là con bài “Công đoàn độc lập” để ép Việt Nam phải đi theo quỹ đạo của chúng vạch ra thực chất là để thực hiện mưu đồ chiến lược “không đánh mà thắng”.

Biểu tình của Công đoàn Đoàn kết tại thành phố Kraków, Ba Lan, tháng 5.1989. Ảnh: Tư liệu
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 2: Làm xáo trộn niềm tin, gây mất đoàn kết

Thực chất con bài “Công đoàn độc lập” chỉ là cái vỏ. Mục đích của các thế lực thù địch trong, ngoài nước là làm cho niềm tin của công nhân, người lao động trong nước bị xáo trộn, gây mất đoàn kết để tiến tới mục tiêu xa hơn là tạo ra lực lượng đối lập, sử dụng phương thức đấu tranh bất bạo động, gây bất ổn chính trị tiến tới sử dụng “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” để lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Những bài viết kêu gọi thành lập công đoàn độc lập đăng tải trên không gian mạng
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 1: “Công đoàn độc lập” – “mũi tiến công số một”

Những năm gần đây, cụm từ “Công đoàn độc lập” được nhắc rất nhiều trên truyền thông đại chúng. Đặc biệt, từ cuối tháng 4, đầu tháng 5.2024, khi biết kế hoạch tổ chức Phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và Hội nghị thượng đỉnh Geneva về nhân quyền và dân chủ tổ chức, hàng loạt câu hỏi đặt ra là: tại sao lại có hiện tượng này; tổ chức nào và ai là những kẻ đứng sau; thực hiện nhằm mục đích gì trong khi tại Việt Nam có đầy đủ hệ thống công đoàn được pháp luật quy định?

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo tại cuộc họp với Thường trực các Tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng và Ban Chỉ đạo tổng kết 40 năm Đổi mới cho ý kiến về những chủ trương lớn vào Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Bài cuối: Phát triển nguyên tắc đổi mới và phát triển kỷ nguyên mới

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Đổi mới là một yêu cầu khách quan, một đòi hỏi của chính thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta, nhằm nhận thức đúng hơn về CNXH, khắc phục những mặt trì trệ, đẩy nhanh quá trình xây dựng xã hội XHCN một cách hợp quy luật, đạt hiệu quả cao, củng cố và tăng cường CNXH.

Bài 1: Mệnh lệnh phát triển đất nước và phát triển nguyên tắc kiến tạo kỷ nguyên mới
Chính trị

Bài 1: Mệnh lệnh phát triển đất nước và phát triển nguyên tắc kiến tạo kỷ nguyên mới

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Lời Tòa soạn: Để góp phần tổng kết lý luận và thực tiễn 40 năm đổi mới, chuẩn bị Đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng, Báo Đại biểu Nhân dân giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản với chủ đề “Mệnh lệnh đổi mới và phát triển nguyên tắc kỷ nguyên mới”.