Đổi mới sự phát triển lý luận - 35 năm nhìn lại và thách thức:

Bài 1: Kiên định con đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam

TS. NHỊ LÊ - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản  

Lời Tòa soạn: Công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước, dưới ngọn cờ của Đảng, hơn 35 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việc nhìn lại và tổng kết hơn 35 năm thực hiện công cuộc này một cách tổng thể mang tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của Đất nước, trong tầm nhìn tới năm 2030, 2045.

Để góp phần tổng kết 35 năm đổi mới, Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài viết của TS. NHỊ LÊ, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, xung quanh vấn đề “Đổi mới sự phát triển lý luận - 35 năm nhìn lại và thách thức”. 

Nhìn lại lịch sử hơn 92 năm của Đảng, trong đó có hơn 77 năm cầm quyền, đặc biệt hơn 35 năm đổi mới vừa qua, mặc dù còn nhiều mặt chưa ngang tầm hoặc không ít lĩnh vực đang bất cập với tiến trình phát triển đất nước theo định hướng XHCN, song rõ ràng có thể khẳng định, với tầm nhìn chiến lược, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ chính đất nước mình, trong xu thế thời đại, với phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã kiến tạo một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh, hình thành đường lối chính trị chỉ đạo thắng lợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Kiên định, trung thành, độc lập, sáng tạo phát triển chủ nghĩa Mác -nin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Càng đẩy tới công cuộc đổi mới, thực tiễn càng đòi hỏi sự phát triển không ngừng của lý luận, nhất là phương lược xử lý những vấn đề mới mẻ và chưa chín muồi. Năm 1991, Đảng ta chỉ rõ: "Những gì mà nhận thức chúng ta đạt tới hôm nay sẽ còn được bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển sau này của thực tiễn và tư duy lý luận"(1). Điều đó hoàn toàn đúng với sự đòi hỏi của V.I. Lênin, ngay từ năm 1917: "Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý"(2). Và, Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ năm 1924, Người cũng viết về điều mệnh hệ đó: "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây... Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại" nên cần "Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông... "(3).

Theo tư tưởng đó, xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới khởi động năm 1986, năm 1991, tại Đại hội VII, Đảng ta quyết định: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động"(4). Đây là vấn đề cực kỳ hệ trọngcó ý nghĩa hết sức to lớn đối với tiến trình đẩy tới công cuộc đổi mớitiền đồ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Đây là điều tự nhiên. Bởi, nó là sự thể hiện tập trung nhu cầu tất yếu của thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước, khát vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nambản lĩnh cầm quyền của Đảng ta - "đứa con nòi của giai cấp lao động nước ta", người lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Đây cũng là một bước tiến lớn, một đóng góp vô giá của công tác lý luận trong việc xây dựng các quan điểm và các nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới gần 20 năm sau đó. Đến lượt nó, đây cũng chính là cơ hội, là môi trường đồng thời là thử thách, là trọng trách vĩ đại đối với công tác lý luận trong việc kiên định, trung thành và độc lập, sáng tạo phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Và, 15 năm sau Đại hội VII của Đảng, tới Đại hội XI, chúng ta không ngừng khám phá và xây dựng một nhận thức toàn vẹn về tư tưởng Hồ Chí Minh, mối quan hệ nội tại và sức mạnh vô địch của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình chỉ đạo thắng lợi công cuộc đổi mới. Nói như các chính khách nước ngoài tại Diễn đàn các Đại hội của Đảng: "Tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội đang trở nên sinh động ở Việt Nam hôm nay". "Thành tựu của nhân dân Việt Nam có được là do các đồng chí đã nghiêm túc nỗ lực áp dụng học thuyết khoa học mác-xít lê-nin-nít vào điều kiện cụ thể của Việt Nam dưới tên gọi tư tưởng Hồ Chí Minh". "Điều đó chứng minh tính thời đại, tính tất yếu và sức sống của chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay"(5).

Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu vận động của cách mạng Việt Nam. Chúng ta đang ở bước đi ban đầu của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ đó, với vô vàn những bước dích dắc, gấp khúc, thậm chí cả giật lùi... nên không thể không có định hướng XHCN đối với toàn bộ hành trình con đường cần phải đi. Đây vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu chủ quan trong mỗi bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Bởi, nói như V. I. Lênin: Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, "Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động"(6).

Theo đó, công tác lý luận đã nỗ lực hoạch định cơ bản về định hướng XHCN trên những lĩnh vực chủ yếu của công cuộc đổi mới: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại..., chỉ rõ những khía cạnh cần đề phòng nguy cơ chệch hướng XHCN trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trong bối cảnh mới của thời đại và đất nước. Luận điểm định hướng có tính chất then chốt là, lý thuyết về sự "phát triển rút ngắn" con đường quá độ "bỏ qua" chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam một cách biện chứng và thực tế: Từ định hướng, định tính tới định lượng và định kỳ với những nấc thang, nhịp độ, bước đi cụ thể, phù hợp. Qua thực tiễn, có thể hình dung khái quát, định hướng XHCN là quá trình xác định những giới hạn, những "độ" tồn tại lịch sử của chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ điểm xuất phát tới đích cuối cùng, với những hành trình, bước đi xác định cụ thể và phù hợp... theo những tính quy luật, quy luật và nguyên tắc xã hội chủ nghĩa mà nếu vượt ra ngoài những giới hạn, những "độ" ấy sẽ chệch hướng hoặc lạc hướng XHCN và tất yếu xuất hiện một chế độ xã hội khác với xã hội XHCN.

Trên cơ sở đó, chúng ta hoạch định định hướng XHCN, tìm tòi định tính trên từng lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội đất nước và ngày càng bổ sung những nhận thức mới về vấn đề căn bản này. Từ mô hình xã hội XHCN gồm 6 đặc trưng năm 1996 tới mô hình 8 đặc trưng năm 2006 là bước tiến cách mạng và sáng tạo về xử lý cái phổ biến và cái đặc thù về chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay của Đảng ta, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và bối cảnh thời đại.

Chúng ta xác định định hướng, định tính XHCN và xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Đó là bước khởi nguyên đồng thời cũng là luận điểm chỉ đạoquán xuyến toàn bộ sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. 

Kiến tạo nền móng phát triển công cuộc đổi mới 

Bắt đầu công cuộc đổi mới, năm 1986, Đảng ta xác định: Xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Với khâu đột phá là đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, với phương pháp, như F.Angel nói, mỗi loại sự vật có một kiểu phủ định riêng của nó, trên cơ sở sự phát kiến táo bạo, công tác lý luận tập trung mọi cố gắng kiến giải, xác lập và nỗ lực góp phần thực thi nền kinh tế thị trường định hướng XHCN - mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là nền kinh tế hoạt động dưới sự chế ngự, dẫn dắt và điều tiết bởi các quy luật, nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội vận hành theo quy luật của thị trường nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.

 Sự khẳng định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là lời tuyên bố đoạn tuyệt nền kinh tế tập trung bao cấp mà chúng ta đã duy trì quá lâu đến mức trở thành một khuyết điểm, thậm chí là sai lầm, như V.I. Lênin nói, cho dù đó là một ưu điểm của một thời gian dài trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trước đây.

 Sự hình thành các quan điểm lý luận chủ yếu một cách "động" và "mở" gắn chặt với trực tiếp chỉ đạo thực tiễn xây dựng, phát triển kinh tế theo định hướng XHCN và qua tổng kết thực tiễn, Đảng ta lựa chọn khâu đột phá là xây dựng thể chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo đó, không ngừng bổ sung, hoàn thiện hệ thống quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo chủ yếu, nội dung khá toàn diện và các biện pháp khả dụng hiệu quả trong tổ chức thực tiễn nhằm xác lập một nền kinh tế quốc dân phát triển mạnh mẽ, bền vững và độc lập tự chủ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuẩn bị đủ tiềm lực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và tích cực hội nhập quốc tế. Chúng ta hướng tới xây dựng một nền kinh tế năng động, phát triển mạnh mẽ, bền vững thấm đượm văn hóa và nhân văn, hay nói cụ thể, đó là văn hóa của sự phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bền vững.

 Nói khái lược, việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ là vấn đề mang tính tất yếu của công cuộc đổi mới mà còn là sự đúng đắn về nguyên tắc, quan điểm của Đảng, đồng thời là đòi hỏi của thực tiễn đất nước với điểm xuất phát đặc thù đi lên chủ nghĩa xã hội như chúng ta; không chỉ là nền móng bảo đảm độc lập tự chủ về chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh mà còn là điều kiện căn bản và môi trường rộng mở tối ưu bảo đảm cho sự phát triển năng động, mạnh mẽ và bền vững của nền kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và vì mục tiêu tiến bộ xã hội, xét trên cả hai bình diện đối nội và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động, hiệu quả. Đó cũng là sự thể hiện ưu thế tuyệt đối của chế độ xã hội ta khi xem nó chỉ là một phương tiện, một công cụ hữu hiệu vì sự phát triển của chủ nghĩa xã hội nhằm phục vụ nhân dân so với các thể chế xã hội khác cùng tiến hành nền kinh tế thị trường.

 Đó là một quyết sách đúng đắn, hợp quy luật, hợp lòng dân trên nguyên tắc XHCN và hợp với xu thế phát triển của thời đại của Đảng ta, một đóng góp to lớn và mới mẻ về lý luận đổi mới XHCN của Việt Nam.    

Đảng ta luôn coi việc xây dựng Nhà nước là một trọng trách có ý nghĩa sống còn. Đặc biệt, bước vào và càng tiến hành mạnh mẽ, sâu sắc công cuộc đổi mới, thực tiễn càng yêu cầu xây dựng bộ máy nhà nước thực sự vững mạnh, trong sạch và ngang tầm với đòi hỏi của cách mạng trong thời kỳ mới. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân là sự phát triển mới về nhận thức chính trị, một mục tiêu quyết định, một nội dung căn bản, một bước tiến lớn về thực tiễn của công cuộc đổi mới toàn diện, trước hết trên bình diện chính trị của chúng ta.

 Nhà nước pháp quyền mà chúng ta xây dựng vẫn mãi giữ bản chất cách mạng, bản chất giai cấp, thực sự là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, với phương thức thực thi quản lý bằng pháp quyền, theo pháp luật; nêu cao vị trí, vai trò của pháp chế, yêu cầu mọi tổ chức, mọi công dân trong xã hội đều phải có nghĩa vụ và quyền lợi tôn trọng và tuân thủ luật pháp đi đôi với phát huy các giá trị đạo đứcvăn hóa dân tộc.

 Chúng ta chưa có sự tích lũy cần thiết về mặt lý luận, nhất là chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trên phương diện tổ chức thực tiễn về công việc to lớn, mới mẻ và nan giải này. Điều đó đòi hỏi sự nỗ lực của công tác lý luận rất toàn diện, rất cao, rất thiết thực và rất hiệu quả trong việc xác lập mô hình, nội dung, tổ chức và phương thức hoạt động cũng như kiến tạo những điều kiện cần và đủ bảo đảm cho Nhà nước ngang tầm phát triển của công cuộc đổi mới không chỉ về quy mô, tốc độ mà cả về chiều sâu và tính chất phức tạp của nó trong bối cảnh biến động khôn lường hiện nay.

 Cho đến hôm nay, cố nhiên còn không ít khiếm khuyết, không ít hạn chế, song chúng ta đã phác thảo một cách vừa đại lược có tính căn bản sâu sắc vừa cụ thể có tính thực tiễn khả thi cao một hệ thống lý thuyết và nỗ lực tổ chức thực tiễn nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Từ vị trí, vai trò, bản chất, chức năng, nhiệm vụ tới đặc trưng, nội dung, mô hình tổ chức quyền lực, đổi mới thể chế và cơ chế vận hành bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và những điều kiện tiên quyết có tính cần và đủ theo hướng căn cơ, hiện đại bảo đảm cho việc thực thi quyền lực của Nhà nước. Tất cả nhằm phục vụ và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tương thích với điều kiện đất nước và phù hợp với xu thế vận động của thời đại.

Điều đó thể hiện bản chất ưu việt của chế độ XHCN và đó cũng chính là hiện thân tư tưởng về xây dựng Nhà nước Việt Nam mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Kết hợp chặt chẽ việc quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật với việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng cho quần chúng nhằm phục vụ nhân dân, vì "tất cả quyền lực trong nước... đều thuộc về nhân dân". Đảng lãnh đạo để Nhân dân là chủ và làm chủ, bằng Nhà nước pháp quyền XHCN lấy pháp luật làm thượng tôn của chúng ta.  

____________

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr 111

(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ -va, 1976, t34, tr 152

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, 1995, t1, tr 466

(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  VII, Nxb Sự thật, hn, 1991, tr 127

(5) Báo Nhân dân, số ra ngày 2.7.1996, tr 5

(6) V.I. Lê-nin: Sđd, t 34, tr 152-153

Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045
Chính trị

Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045

Lời Tòa soạn: Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, chưa bao giờ như hiện nay, vấn đề xây dựng và thực thi triết lý phát triển Đất nước lại đặt ra và thách thức gay gắt, đòi hỏi Việt Nam một sự nỗ lực vượt bậc, toàn diện. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, tăng tốc và kỳ vọng phát triển vượt bậc. Do đó, việc kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045 trở nên vừa cấp bách vừa mang tầm chiến lược. Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản với chủ đề: “Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045”.

Bài cuối: Biến quyết tâm thành hành động thực tiễn
Chính trị

Bài cuối: Biến quyết tâm thành hành động thực tiễn

Nghị quyết số 57 thể hiện cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc huy động sức mạnh toàn diện của hệ thống chính trị và xã hội nhằm tạo xung lực mới cho phát triển đất nước. Nghị quyết xác định đây là “cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện” cần được triển khai “quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài” với những giải pháp đột phá​. Nhiệm vụ hiện nay là biến quyết tâm đó thành hành động thực tiễn. Muốn vậy, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ của toàn hệ thống chính trị và các thành phần kinh tế – xã hội, từ quyết tâm của người lãnh đạo cho đến nỗ lực của từng người dân.

Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TP. Hồ Chí Minh Nguyễn Thanh Nghị phát biểu tại Hội thảo
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận - nền tảng cho mọi quyết sách

Nhấn mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận là nền tảng cho mọi quyết sách, tại Hội thảo khoa học quốc gia công tác lý luận của Đảng và những định hướng nghiên cứu quan trọng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, các đại biểu đề nghị, cần đẩy mạnh gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, các cơ quan nghiên cứu cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để triển khai các dự án thí điểm, từ đó rút ra bài học thực tiễn. Xây dựng mạng lưới học giả, nhà nghiên cứu hàng đầu nhằm phát triển các giải pháp lý luận sáng tạo.

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu tham dự phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Xây dựng Đảng về văn hóa bắt đầu từ chính mỗi đảng viên

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Trong rất nhiều công việc, cấp bách 6 trọng sự. Trước tiên là bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lenin - “lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi”(24) - Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định - một cách độc lập, sáng tạo nhằm cung cấp tri thức lý luận chính trị hết sức căn bản; đồng thời, đào tạo đảng viên một cách toàn diện về tri thức văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, tri thức lãnh đạo, quản lý, các kỹ năng “mềm”, năng lực công nghệ hiện đại… làm nền tảng xây dựng và phát triển văn hóa Đảng và văn hóa của đảng viên.

Toàn cảnh Phiên khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Chính trị

Bài 2: Dự báo những nhân tố phi văn hóa, phản văn hóa trong xây dựng, thực hành văn hóa của đảng viên

“Đảng ta không phải từ trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”(22). Hơn nữa, “Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng”(23).

Toàn cảnh Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Chính trị

Bài 1: Văn hóa Đảng - dòng chủ lưu và phát triển trong dòng chảy văn hóa dân tộc

Lời Tòa soạn: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, việc xây dựng và phát triển văn hóa đảng viên không chỉ là yêu cầu cấp thiết, mà còn là nền tảng cho sự bền vững của Đảng và dân tộc. Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, Nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản với chủ đề “Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh – Phát triển văn hóa của đảng viên trong kỷ nguyên mới”.

toàn cảnh Hội thảo
Chính trị

Lý luận phải đồng hành, vươn lên dẫn đường cho thực tiễn trong kỷ nguyên mới

Tại Hội thảo quốc gia về Công tác lý luận của Đảng và những định hướng nghiên cứu quan trọng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, các đại biểu nhấn mạnh, cần tiếp tục quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn gắn với đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu một cách thiết thực, khoa học, hiệu quả, bảo đảm lý luận phải đồng hành với thực tiễn và vươn lên dẫn đường cho thực tiễn trong kỷ nguyên mới.

Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII thảo luận nhiều vấn đề quan trọng chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng.
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Hết sức bền bỉ, công phu, tăng "sức đề kháng" để bảo vệ Đảng

Xây dựng văn hóa trong Đảng phải hết sức bền bỉ, công phu, thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp. Phải làm cho toàn Đảng, từng tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên có nhận thức đúng về văn hóa Đảng, làm văn hóa Đảng trở thành những giá trị đặc trưng cho một đảng cách mạng chân chính và hiện đại, thành nhu cầu trong Đảng và của đảng viên. Phải làm cho Đảng tăng sức đề kháng để bảo vệ mình vì suy đến cùng sức mạnh của Đảng là sức mạnh về văn hóa.

Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Quốc hội và Cử tri

Bài 3: Xây dựng những cán bộ tốt, đảng viên tốt

Trong bối cảnh hiện nay, nước ta phải hướng đến xây dựng những cán bộ tốt hay cụ thể hơn, đó là những đảng viên tốt. Đảng chú trọng công tác cán bộ vừa là quyền hạn nhưng cũng là trách nhiệm trước sự tồn vong của Đảng, sự hưng thịnh của đất nước, của chế độ. Để đi tới được kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thì Đảng phải quản trị cho được đội ngũ cán bộ thật sự toàn diện, nghiêm minh. Có được cán bộ, đảng viên tốt, văn hóa trong Đảng cũng tăng lên theo tỷ lệ thuận.

Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa.
Chính trị

Bài 2: Mỗi đảng viên tự nêu gương thì hàng triệu đảng viên là những tấm gương sáng

Để tiếp tục phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên trong xây dựng văn hóa Đảng, Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9.5.2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới đã được ban hành. Có thể thấy, nếu mỗi cán bộ, đảng viên, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hiểu rõ và tự giác thực hiện đầy đủ Quy định 144 - QĐ/TW, thì đây chính là công cụ hữu hiệu để ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, sự xói mòn về phẩm chất đạo đức, tệ tham ô, tham nhũng, lãng phí, xa rời quần chúng. Mỗi cán bộ, đảng viên tự nêu gương thì hàng triệu đảng viên sẽ là những tấm gương sáng, toàn Đảng sẽ thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với Nhân dân.

Toàn cảnh Hội thảo khoa học quốc gia những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng văn hóa trong Đảng trong giai đoạn mới ngày 15.1.2025
Chính trị

Bài 1: Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - hồn cốt của văn hóa trong Đảng

Lời Tòa soạn: Văn hóa trong Đảng là những giá trị văn hóa tốt đẹp mà Đảng ta đã lựa chọn, vun đắp, xây dựng, đổi mới và phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đó là những giá trị văn hóa được kết tinh từ truyền thống văn hóa dân tộc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; được tiếp thu, bổ sung những giá trị tinh hoa của văn hóa nhân loại trong thời đại mới, với nền tảng, hạt nhân là chủ nghĩa Mác-Lênin; được khơi nguồn, soi sáng và dẫn dắt bởi tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; được kiểm nghiệm, khẳng định trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Báo Đại biểu Nhân dân giới thiệu loạt bài về "Xây dựng văn hóa trong Đảng" với mong muốn cung cấp thêm thông tin về chủ đề đặc biệt quan trọng này.

Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang phát biểu khai mạc Hội nghị quán triệt, triển khai Luật Công đoàn 2024. Ảnh: Hải Nguyễn
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Minh chứng hùng hồn nhất bác bỏ những luận điệu xuyên tạc

Trước mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch và việc Việt Nam buộc phải cụ thể hóa quy định thành lập “Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp” theo cam kết quốc tế, tổ chức Công đoàn Việt Nam cần nâng cao vai trò, sứ mệnh của mình, để người lao động tin tưởng, gắn bó với “mái nhà chung” – nơi đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ. Đây là câu trả lời xác đáng, minh chứng hùng hồn nhất bác bỏ những luận điệu xuyên tạc.

Liên đoàn Lao động tỉnh Kiên Giang bàn giao nhà Mái ấm Công đoàn tặng đoàn viên công đoàn. Ảnh: Mỹ Linh
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 4: Vững tin trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc

Ngoài đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích đoàn viên, người lao động, Công đoàn Việt Nam luôn đi đầu phát động, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước; là chỗ dựa tinh thần vững chắc để công nhân, lao động tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, tin vào sứ mệnh của tổ chức Công đoàn Việt Nam. Qua đó, tăng sức đề kháng cho công nhân lao động trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trên không gian mạng.

Người biểu tình đốt phá nhà ở thủ đô Dhaka, Bangladesh vào tháng 7.2024
Chính trị

Bài 3: Mưu đồ chiến lược “không đánh mà thắng”

Việc các thế lực phản động trong nước, quốc tế câu kết với nhau, dùng con bài dân chủ, nhân quyền mà trực tiếp là con bài “Công đoàn độc lập” để ép Việt Nam phải đi theo quỹ đạo của chúng vạch ra thực chất là để thực hiện mưu đồ chiến lược “không đánh mà thắng”.

Biểu tình của Công đoàn Đoàn kết tại thành phố Kraków, Ba Lan, tháng 5.1989. Ảnh: Tư liệu
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 2: Làm xáo trộn niềm tin, gây mất đoàn kết

Thực chất con bài “Công đoàn độc lập” chỉ là cái vỏ. Mục đích của các thế lực thù địch trong, ngoài nước là làm cho niềm tin của công nhân, người lao động trong nước bị xáo trộn, gây mất đoàn kết để tiến tới mục tiêu xa hơn là tạo ra lực lượng đối lập, sử dụng phương thức đấu tranh bất bạo động, gây bất ổn chính trị tiến tới sử dụng “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” để lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Những bài viết kêu gọi thành lập công đoàn độc lập đăng tải trên không gian mạng
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 1: “Công đoàn độc lập” – “mũi tiến công số một”

Những năm gần đây, cụm từ “Công đoàn độc lập” được nhắc rất nhiều trên truyền thông đại chúng. Đặc biệt, từ cuối tháng 4, đầu tháng 5.2024, khi biết kế hoạch tổ chức Phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và Hội nghị thượng đỉnh Geneva về nhân quyền và dân chủ tổ chức, hàng loạt câu hỏi đặt ra là: tại sao lại có hiện tượng này; tổ chức nào và ai là những kẻ đứng sau; thực hiện nhằm mục đích gì trong khi tại Việt Nam có đầy đủ hệ thống công đoàn được pháp luật quy định?

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo tại cuộc họp với Thường trực các Tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng và Ban Chỉ đạo tổng kết 40 năm Đổi mới cho ý kiến về những chủ trương lớn vào Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Bài cuối: Phát triển nguyên tắc đổi mới và phát triển kỷ nguyên mới

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Đổi mới là một yêu cầu khách quan, một đòi hỏi của chính thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta, nhằm nhận thức đúng hơn về CNXH, khắc phục những mặt trì trệ, đẩy nhanh quá trình xây dựng xã hội XHCN một cách hợp quy luật, đạt hiệu quả cao, củng cố và tăng cường CNXH.

Bài 1: Mệnh lệnh phát triển đất nước và phát triển nguyên tắc kiến tạo kỷ nguyên mới
Chính trị

Bài 1: Mệnh lệnh phát triển đất nước và phát triển nguyên tắc kiến tạo kỷ nguyên mới

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Lời Tòa soạn: Để góp phần tổng kết lý luận và thực tiễn 40 năm đổi mới, chuẩn bị Đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng, Báo Đại biểu Nhân dân giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản với chủ đề “Mệnh lệnh đổi mới và phát triển nguyên tắc kỷ nguyên mới”.