Khó khăn cũng là “áp lực tích cực”
- Năm 2023, tăng trưởng kinh tế của nước ta là điểm sáng trong khu vực và thế giới (5,05%), song vẫn dưới mục tiêu đề ra, cho thấy nền kinh tế còn rất khó khăn và dự báo kéo dài sang năm 2024. Bối cảnh đó sẽ tác động thế nào đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thưa bà?
- Năm 2023, kinh tế Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức đan xen với những cơ hội, thời cơ, song khó khăn, thách thức là chủ yếu. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, cùng với sự phối hợp, đồng hành, chia sẻ của Quốc hội, Chính phủ đã chủ động, quyết liệt, sát sao chỉ đạo các bộ, ngành triển khai nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhờ đó, dù còn nhiều khó khăn, song chúng ta đã đạt được không ít thành quả quan trọng. Chẳng hạn, lạm phát (theo CPI bình quân) đạt 3,25%; thặng dư thương mại hàng hóa và vốn FDI thực hiện đều ở mức kỷ lục (tương ứng là 28,3 tỷ USD và 23,2 tỷ USD). Đáng chú ý, đà phục hồi quý sau cao hơn quý trước, tháng sau cao hơn tháng trước là một nền tảng quan trọng, tiếp thêm niềm tin để chúng ta vững tâm hơn khi bước vào năm 2024.
Trong năm 2024, cần thường xuyên theo dõi các diễn biến trên thị trường thế giới và các động thái chính sách ở nhiều nước, từ đó đánh giá cụ thể về cả cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp và nền kinh tế. Nếu biết chắt chiu những cơ hội kinh tế có được, chẳng hạn gắn với xu hướng nổi lên của các công nghệ mới (như trí tuệ nhân tạo - AI), dịch chuyển dòng vốn đầu tư vào một số lĩnh vực mới (như công nghệ bán dẫn, hydrogen xanh, tài chính khí hậu…), khả năng tạo đột phá cho phát triển ngay trong bối cảnh khó khăn là không nhỏ.
Bối cảnh khó khăn cũng là “áp lực tích cực” để doanh nghiệp nhìn nhận thẳng thắn hơn về yêu cầu tái cơ cấu để thích ứng. Chính ở đây, vai trò của Chính phủ trong việc tạo dựng môi trường chính sách thuận lợi đổi mới sáng tạo, ít thủ tục và chi phí không cần thiết, và hỗ trợ cho doanh nghiệp chuyển đổi là rất quan trọng.
- Cũng trong khó khăn đó, có ý kiến cho rằng, “chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam có vận hội tốt như ngày hôm nay”, nhất là khi chúng ta đã nâng tầm Đối tác Chiến lược toàn diện với Mỹ và Nhật Bản; chuyến thăm của Tổng Bí thư - Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng được đánh giá và kỳ vọng sẽ mở thêm những cơ hội cho kinh tế Việt Nam. Bà nghĩ sao?
-Việt Nam vẫn nhấn mạnh cách tiếp cận toàn diện, kết hợp phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Cách tiếp cận ấy đã phát huy hiệu quả trong bối cảnh vừa qua. Với việc nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển, Việt Nam đã thiết lập quan hệ từ cấp chiến lược với cả 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Với Nhật Bản, việc nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới cũng có ý nghĩa quan trọng thể hiện lòng tin và ưu tiên hợp tác giữa hai nước trong bối cảnh mới. Vị thế, uy tín quốc tế được nâng cao cũng tạo điều kiện cho công tác ngoại giao, thu hút nguồn lực tài chính và công nghệ từ bên ngoài cho quá trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Các doanh nghiệp phải nỗ lực hơn nữa để tận dụng các cơ hội mới. Cải thiện khả năng quản trị, nâng cao năng suất luôn là yêu cầu thường trực. Trong bối cảnh mới, hợp tác với các đối tác, nhà đầu tư nước ngoài cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải nhìn nhận các xu hướng mới về phát triển bền vững, quản trị dữ liệu… Chính ở đây, xây dựng chiến lược và lộ trình cải thiện khả năng khai thác các FTA, có tính tới tích lũy nguồn lực, thương hiệu và khả năng đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững mới là hướng đi phù hợp nhất, dù không dễ.
Động lực cải cách thể chế cần được duy trì liên tục
- Trong nghiên cứu của CIEM cũng như trong các phát biểu tại nhiều hội thảo, diễn đàn, bà nhắc nhiều đến vấn đề thể chế cho phát triển, trong đó nhấn mạnh phải cải cách môi trường kinh doanh. Nhìn lại năm 2023, theo bà, thể chế đã có tác động như thế nào đến sự phát triển đất nước?
- Trong năm 2023, công tác cải cách thể chế kinh tế có những chuyển biến quan trọng. Quốc hội đã quyết liệt đồng hành, tháo gỡ không ít rào cản về mặt thể chế, chính sách cho hoạt động cải cách và điều hành của Chính phủ, bộ, ngành và địa phương. Các quy hoạch được phê duyệt đã lồng ghép những tư duy mới, gắn với phát triển kinh tế đô thị, liên kết đô thị - nông thôn… Tư duy xây dựng cơ chế thử nghiệm cho một số lĩnh vực (fintech, kinh tế tuần hoàn), cơ chế đặc thù cho vùng, địa phương đã được cân nhắc tích cực hơn nhằm tạo không gian cho các lĩnh vực, địa phương sớm phục hồi, chuyển đổi và phát triển. Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh không còn được nhìn nhận một cách rời rạc, mà có sự gắn kết tương hỗ với nhau, và đều ưu tiên thực hiện khẩn trương, ngay trong quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế. Những chuyển biến này chính là một nguyên nhân quan trọng giúp Việt Nam tiếp tục duy trì, củng cố niềm tin của cộng đồng nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Trong thời gian tới, thể chế chính là một nguồn lực, thậm chí là “chìa khóa” quan trọng cho phát triển. Ngay từ đầu năm 2024, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP về cải cách môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Chúng tôi cũng đang rà soát các chính sách, quy định liên quan đến các mô hình kinh tế mới như kinh tế tuần hoàn, kinh tế ban đêm... để xác định những vướng mắc và kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý.
Bên cạnh đó, cần sớm cụ thể hóa, hướng dẫn triển khai các quy định trong một số Luật quan trọng mới được ban hành trong năm 2023, như Luật Giao dịch điện tử hay quyết liệt hoàn thiện Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) ban hành vào đầu năm 2024. Điểm quan trọng là chúng ta cần phát huy bài học kinh nghiệm từ năm 2023, để bảo đảm động lực cải cách thể chế được duy trì liên tục.
- Cũng liên quan đến vấn đề thể chế, nhiều chuyên gia đề xuất, muốn phát triển, chúng ta phải tập trung cho những doanh nghiệp lớn, thương hiệu tốt trụ được, để khi khủng hoảng qua đi, họ có cơ hội bứt phá, làm đầu tàu kéo cả nền kinh tế Việt Nam. Làm thế nào để phát triển hơn nữa những đầu tàu này?
- Việt Nam cần quan tâm phát triển cả các doanh nghiệp quy mô lớn, quy mô trung bình, và các doanh nghiệp nhỏ, để bảo đảm có một cộng đồng doanh nghiệp đầy đủ, vững mạnh cho bối cảnh phát triển mới. Ngay trong bối cảnh ấy, các doanh nghiệp lớn, có năng lực tài chính và thương hiệu, có ý nghĩa đặc biệt. Phát triển các doanh nghiệp này cần một số điều kiện đặc biệt.
Thứ nhất, chúng ta cần khơi dậy và cổ vũ tinh thần doanh nhân, để các doanh nghiệp “muốn lớn, dám lớn, và có thể chơi lớn”.
Thứ hai, cần nhanh chóng tháo gỡ những chồng chéo, mâu thuẫn trong các chính sách, quy định liên quan để các doanh nghiệp lớn - thường hoạt động trong nhiều ngành, lĩnh vực - có môi trường thuận lợi, dễ tiên liệu cho phát triển.
Cuối cùng, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là lao động chất lượng cao và các cán bộ quản lý bậc trung, có ý nghĩa quan trọng, lâu dài đối với sự phát triển của các doanh nghiệp này.
- Trân trọng cảm ơn bà!