Đạo đức và Tự do

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Đối với con người và xã hội, có thể nói, nếu đạo đức là nhân thì tự do là quả. Đến lượt nó, tự do là thước đo của sự phát triển đạo đức và đạo đức lại là quả ở đẳng cấp mới của tự do… Cứ như thế, đạo đức và tự do là quan hệ tự nhiên và tất yếu để con người không ngừng khẳng định mình, nêu cao tính người của mình và thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người trong giới tự nhiên và cân bằng với giới tự nhiên, ngày càng hạnh phúc.

Đạo là con đường. Đức là tính tốt. Đạo đức là một hiện tượng lịch sử và xét cho cùng, là sự phản ánh của các quan hệ xã hội.

Đạo đức là sự tổng hợp và thể hiện về luân thường đạo lý của con người: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức, giá trị đạo đức và hành xử đạo đức. Nó thường gắn với nền văn hóa, tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn và những luật lệ của xã hội về cách hành xử của con người, của cộng đồng và quốc gia. Nó là một yếu tố trong tính cách và làm nên giá trị cơ bản nhất của con người cũng là nhân tố căn bản vun đắp phẩm chất, bản lĩnh và khí phách của dân tộc.

Và, tự do, kể từ thời cổ đại đến nay, nó vẫn luôn là cái đích mà loài người trải hàng mấy nghìn năm khát khao vươn tới, thậm chí trải qua các cuộc đấu tranh phá bỏ gông cùm, xiềng xích về mọi mặt để vươn mình đến với nó. Và, tự do đã trở thành bản chất tự nhiên, bản năng sống còn và cũng là khát vọng cháy bỏng. Bao nhiêu thế hệ nguyện hiến cả máu của mình để giành lấy và bảo vệ lý tưởng tự do, mưu cầu hạnh phúc. 

Đạo đức và Tự do -0
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII. Ảnh: Trí Dũng

Đạo đức và tự do đối với mỗi người và toàn nhân loại, với tất cả các quốc gia dân tộc và khắp hoàn cầu là giá trị cao cả và khát vọng thiêng liêng vì hạnh phúc vô giá!

*

*        *

Đạo đức là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai và chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội, bởi sự bảo vệ của pháp luật. Vì thế, đạo đức ở tất cả mọi quốc gia, cũng là sản phẩm của pháp luật và chính quyền. Đạo đức không phải chỉ ở châu Phi, châu Mỹ hay ở châu Âu mà của toàn nhân loại. Vì, đạo đức là tốt hoặc xấu, là vô hình nhưng cũng là hiện hữu. Khi mưu cầu hạnh phúc, nói như tiền nhân, cho dù dưới chế độ chuyên quyền hay dân chủ, cho dù trong sự nô lệ hay tự do, người ta sẽ không bao giờ đạt được, nếu không có đạo đức. Theo đó, con người tự nguyện điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội và của nhân loại và liên tục phát triển.

Khi nói về một người có đạo đức là nói về sự rèn luyện và thực hành các lời răn dạy về đạo đức theo cách sống chuẩn mực tốt trong đời sống và cái đẹp trong tâm hồn. Người có đạo đức là người vị tha và hiến dâng cho cộng đồng. Nếu chỉ vì cái lợi nhỏ trước mắt mà phá bỏ nguyên tắc; và, cho dù có tài giỏi bao nhiêu, nếu đánh mất nhân phẩm thì nhất định sớm muộn sẽ tự hủy hoại mình và chắc chắn cũng tự rước đại họa trước hết cho chính mình, trước khi gieo họa cho người khác và cho xã hội.

Vì thế, nói tới đạo đức là nói tới tri thức gắn với lương tâm. Nó như tiếng nói bên trong đầy quyền uy chỉ dẫn, nhưng đầy trắc ẩn thôi thúc làm những điều tốt và lương thiện; đồng thời, chỉ trích, ngăn cản làm những điều xấu xa, tội lỗi. Khi tri thức đánh thức lương tâm và lương tâm thức tỉnh là lúc con người ý thức về cái cần phải làm, có thể vì sợ hãi bị trừng phạt bởi thiết chế xã hội hoặc ý niệm tâm linh nào đó; là khi ý thức về cái phải làm, cần phải tránh vì xấu hổ trước người khác và trước dư luận xã hội; là thời khắc ý thức về cái cần làm vì xấu hổ với bản thân. Khi cá nhân tự xấu hổ với ý nghĩ và hành vi của mình, là lúc lương tâm thức tỉnh. Từ tri thức đạo đức đến sự tự phán xét các suy nghĩ và kiểm soát hành vi của mình thì đó chính là lương tâm lên tiếng bằng hành động.

Và vì thế, lương tâm tự nhiên ràng buộc chặt chẽ với ý thức và hành động mang tính nghĩa vụ của con người. Khi làm những điều xấu xa, độc ác thì lương tâm cắn rứt; trái lại, khi làm những điều tốt, cao thượng thì lương tâm thanh thoát. Lúc ấy, đạo đức chính là ánh sáng vi tế có thể soi thấu tận những góc khuất, thậm chí u mê, tăm tối nhất của tâm hồn. Do thế, lương tâm chính là đã hàm chứa sự xấu hổ và cả sự hối hận của con người. Và, giữ cho lương tâm trong sạch là tiêu chí tiêu chí sống thiện lương và hạnh phúc của con người.

Mặt khác, nghĩa vụ đạo đức chính là trách nhiệm của cá nhân đối với nhu cầu, lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội. Khi ý thức về trách nhiệm, về tình cảm đạo đức của mình và nghiêm cách tự đánh giá, phán xét những hành vi, cách hành xử của mình đối với người người khác và trong xã hội thì chính là lúc lương tâm và trách nhiệm cùng lên tiếng và con người tự giác thực hiện nghĩa vụ đạo đức và nghĩa vụ pháp lý. Khi nhu cầu, lợi ích cá nhân nảy sinh mâu thuẫn với nhu cầu lợi ích xã hội, cá nhân phải biết hy sinh cái riêng vì cái chung. Đây là thước đo về lương tâm và trách nhiệm đạo đức cá nhân trước liêm sỉ của mình, trước cộng đồng, trước xã hội một cách tự nhiên và sinh động.

Cộng đồng, xã hội hành động một cách đạo đức, đến lượt mình, phải lãnh nhiệm sứ mệnh và trọng trách bảo đảm cao nhất có thể, trước hết là xây dựng và phát triển môi trường đạo đức xã hội lành mạnh cho mỗi cá nhân thỏa mãn nhu cầu chân chính và lợi ích hợp pháp một cách toàn vẹn. Đó là "hàn thử biểu" về sự tiến bộ của xã hội trong thực hiện nghĩa vụ đạo đức và nghĩa vụ pháp lý. Nếu cái thiện được nâng niu và cổ vũ và cái ác bị ngăn chặn và đẩy lùi là thước đo đời sống đạo đức của mọi cá nhân hài hòa trong sự phát triển của đạo đức xã hội thì đó chính là sự thể hiện lợi ích và trách nhiệm của cá nhân phù hợp với yêu cầu và sự tiến bộ của xã hội… mà tất cả phải vì sự phát triển văn minh của xã hội và vì hạnh phúc thiêng liêng của con người.

Đến lượt tự do, nó là nhu cầu tất yếu cho cuộc sống mỗi người và toàn thể cộng đồng nhân loại. Nói như tiền nhân, tự do là không bị kiểm soát bởi một thế lực đối với số phận và ý chí tự do. Vì, tất cả mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Như vậy, tự do là một quyền cơ bản luôn gắn liền với con người từ khi sinh ra, mặc nhiên có quyền tự do suy nghĩ và hành động theo ý mình. Nhưng, tự do không có nghĩa là một người có thể làm bất cứ điều gì họ muốn mà không phải gánh chịu hậu quả. Tự do của người này không thể và không được phép làm tổn hại sự tự do của người khác. Mọi sự ích kỷ đều dẫn tới ngõ cụt, nhưng mọi sự buông thả tất  đi tới thất bại. Vì thế, con người cần biết tự do trong khuôn khổ để không làm tổn hại đến sự tự do của bất kỳ ai và nhất là của cộng đồng. Nó luôn đòi hỏi sự nỗ lực và lòng quyết tâm của con người để thực hiện trách nhiệm đối với chính mình và thống nhất với xã hội chứ không phải là những thứ: tự do tùy tiện, tự do vô chính phủ hay tự do giả hiệu, tự do trong xiềng xích tưởng tượng nào đó, nhất là được dung dưỡng bởi những thứ đạo đức giả.

Và, đến lượt đạo đức, những nguyên tắc của nó có thể trở thành cơ sở dẫn dắt con người nhận thức và hành động về tự do. Vì, mỗi con người, dù thân phận thế nào, đều bình đẳng và xứng đáng được tự do để theo đuổi và bảo vệ hạnh phúc của chính mình thống nhất trong hạnh phúc của cộng đồng, của quốc gia dân tộc. Do đó, tự do là quyền bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia dân tộc kết tinh và hiện hình ở mỗi cá nhân. Đó là quyền tự quyết kép của quốc gia và của cá nhân. Không ai có quyền kiểm soát hoặc can thiệp vào quyền tự do của một quốc gia khác. Một quốc gia độc lập, có chủ quyền và tự do không thể bị xâm lược bởi các quốc gia khác và tất nhiên, người dân của mình tự do tham gia vào các hoạt động chính trị và xã hội mà không bị hạn chế. Hành xử trái thế, dù là bất kỳ ai hay bất cứ quốc gia dân tộc nào, vô luận, là phi đạo đức và đi ngược với tự do; vô luận tự rơi vào bất hạnh.

Nếu pháp luật góp phần quan trọng tạo nên đạo đức thì lương tâm và sức mạnh dư luận xã hội là những nhân tố căn bản mở ra chân trời phát triển vô hạn của tự do và hạnh phúc.     

*

*        *

Khi lịch sử nhân loại và dân tộc mấy nghìn năm xác tín, không bao giờ có một người thực sự vĩ đại mà lại không phải là một người thực sự đạo đức thì càng là lúc cần càng hiểu vì sao với tư cách là một Đảng lãnh đạo, cầm quyền, Đảng ta từ khi ra đời suốt 93 năm qua và nhất là hiện nay Đảng ta càng đặc biệt coi trọng xây dựng, chỉnh đốn mình và toàn thể hệ thống chính trị về đạo đức. Bởi, chỉ khi là đạo đức, là văn minh, mới thật sự xứng đáng là một người lãnh đạo, cầm quyền xứng đáng với dân tộc. 

Tất cả vì độc lập của dân tộc, tự do và hạnh phúc của Nhân dân ta, dưới ngọn cờ của Đảng!

Nhìn bài học phát triển của toàn nhân loại suốt mấy nghìn năm nay càng thấy, hạnh phúc của con người, cho dù dưới chế độ chuyên quyền hay dân chủ, cho dù trong sự nô lệ hay tự do, sẽ không bao giờ đạt được, nếu con người không có đạo đức. Chúng ta đã, đang và mãi mãi hành động vì điều thiêng liêng đó.

Kinh nghiệm lớn sau 38 năm đổi mới, càng phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế cảnh báo càng đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và nỗ lực hơn nữa phát triển đạo đức xã hội nói riêng và văn hóa nói chung, để Việt Nam xứng đáng với bè bạn quốc tế và xứng đáng với mục tiêu đổi mới - sáng tạo - phát triển nhân văn và bền vững của chính mình. Đạo đức mỗi người làm nên uy tín, sức mạnh và danh dự cá nhân. Đạo đức dân tộc làm nên Quốc khí, Quốc tín. Tri thức trong đầu và đạo đức trong tim. Không có đạo đức, không có văn hóa tương xứng với truyền thống, với mục tiêu nhân văn, nhất định mỗi người và dân tộc không có có bất cứ sự tự do, hạnh phúc nào xứng đáng, quốc gia không thể có bất cứ sự phát triển ngang tầm nào như mong muốn, càng không thể giữ vững nền độc lập, sự thống nhất toàn vẹn của đất nước, bảo vệ và phát huy Quốc thể Việt Nam! 

Vì thế, một người dù ưu tú đến đâu nhưng nhân cách không bình thường cũng sẽ làm mất đi niềm tin và sự ủng hộ của người khác. Một xã hội có thể đạt được văn minh tới đâu nếu lãng quên con người, buông lơi đạo đức cá nhân, coi nhẹ đạo đức xã hội, không tạo ra môi trường và tạo dư luận vun đắp, kiểm soát đạo đức thì không thể xem thứ văn minh đó là tự do, là sự tiến bộ và nhân văn được, thậm chí đó chính là phản tự do, phản văn minh, phản tiến bộ và phản hạnh phúc. Vì, hơn bất cứ thứ gì, đạo đức là nền tảng để làm người, là gốc của mọi thứ và chân lý chính là bản chất của hạnh phúc.

Độc lập hay thống nhất sẽ không thể vững bền, nếu thiếu nền móng đạo đức xứng đáng, và tất nhiên vì thế, sẽ thiếu tự do và khiếm khuyết hạnh phúc ngang tầm vị thế và thanh danh đất nước.   

*

*        *

Sau 38 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới, hiện nay, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, trên nền móng văn hóa dân tộc, Đảng ta phấn đấu trở thành không chỉ là đạo đức, là văn minh mà còn phải thật sự xứng đáng là biểu tượng văn hóa dân tộc trong thời đại ngày nay. Bởi, chỉ có như thế Đảng mới thật sự xứng đáng và làm tròn trách nhiệm vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân vừa thật sự xứng đáng là đứa con nòi của dân tộc. Đó chính là xây dựng Đảng về văn hóa. Đó là thách thức trọng trách của Đảng trong vị thế và vai trò dẫn dắt dân tộc! Đạo đức - tự do - văn hóa - hạnh phúc: Đó là mục tiêu và con đường phát triển Việt Nam, mà trước hết và hơn ai hết, Đảng luôn xứng đáng với biểu tượng đó! Vì, dân tộc Việt Nam là một dân tộc đạo đức và nhất định dân tộc có quyền được hưởng hạnh phúc! Không có đạo đức không thể có độc lập cho dân tộc và càng không thể có tự do cho mỗi ngưởi và Nhân dân!

Trên đường đổi mới sáng tạo, càng ở những khúc quanh co càng cho thấy, quyền lực luôn luôn thu hút những kẻ không có đạo đức. Sự suy thoái về đạo đức nhất định sẽ dẫn tới hủ bại về chính trị. Không ít người sống và hành động bằng một thứ đạo đức giả trá: "xanh vỏ đỏ lòng", "khẩu Phật tâm xà"…, hành động bất chấp đạo lý, tráo trở cả gan chà đạp lên đạo đức cốt mưu toan mưu lợi cá nhân, gia đình, phường hội, thậm chí cả sự táng tận lương tâm: bán rẻ lợi ích xã hội, coi rẻ lợi ích quốc gia dân tộc. Nếu người không có đạo đức giống như con thú dữ bị thả rông vào thế giới thì không ai không thấy, trước vành móng ngựa hay sau song sắt nhà tù, họ lại hiện nguyên hình là những kẻ hèn hát đến vô liêm sỉ vì chủ nghĩa kim tiền đã bóc lột cả môi trường sống, tước đoạt cả tự nhiên hay rắp tâm cùng nhóm lợi ích cả gan xả thịt và đánh chén hàng nghìn tỷ đồng quốc khố. Cái ác nhân danh quyền lực lên ngôi tất xã hội hỗn loạn. Đạo người suy thoái nắm pháp luật sẽ bẻ cong công lý, “khoanh vùng” pháp luật, thì đó là sự man rợ. Khi tùy tiện hành động theo ham muốn, dục vọng là lúc họ biến mình thành nô lệ của chính thứ đạo đức giả, trở thành tù nhân của chủ nghĩa kim tiền hay chủ nghĩa tự do vô chính phủ. Nên nhớ, khi nắm quyền lực, thì tham ô và hủ hóa là hai chiếc giày của đôi giày của thứ đạo đức chính trị suy thoái và con đường đi tất yếu của họ là vào… thẳng nhà lao. Lúc đó, họ đang ở phía đối lập của tự do và hạnh phúc. Thất đức ắt thất phúc!

Không có đạo đức ắt không có tự do và càng không có hạnh phúc!

Tự do, vì thế, chỉ có được khi hành động theo những quy tắc ta đặt ra cho chính mình và xã hội quy định những nguyên tắc đạo đức thành pháp luật. Người có danh dự, theo đuổi lý tưởng đạo đức cho dù có thể dù “cô đơn” hoặc bị thiệt thòi, thậm chí là nguy hiểm, nhưng không sờn chí, thậm chí không tiếc thân mình. Không có liêm sỉ thì không thể thành người! Vì, kiên nhẫn tích đức ắt được đại phúc. Hy sinh cho tự do dân tộc và hạnh phúc của Nhân dân là đạo đức lớn nhất và thiêng liêng nhất trên đời! Chính khí hạo nhiên thiên địa vĩnh tồn.

Cả dân tộc theo đó, thử hỏi ai ai không trở nên có danh dự, quốc gia theo đó, sao mà không cường thịnh, tự do và hạnh phúc sao mà không tự đến cho được?

Muốn trở nên văn minh, xét cho cùng, không thể không có nền tảng đạo đức vững chãi. Vì, đạo đức có thể bù đắp cho sự thiếu hụt về trí tuệ, nhưng trí tuệ mãi mãi không thể bù đắp cho sự thiếu hụt về đạo đức. Thông thường trí tuệ cao bao nhiêu thì đạo đức dày bấy nhiêu. Nhưng, không ít người giữ trọng trách quốc gia, dù học vị, học hàm hợm hĩnh trương lên đầy mình nhưng lương tâm họ bị chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa phường hội đánh cắp, một số người biến thành những kẻ “đạo” danh phạm vào sự vô liêm chính, “đạo” vị (ăn trộm chức vụ, quyền lực) một cách vô liêm sỉ, tự đẩy mình vào vòng tù tội. Nghĩa là, bên trong không tự làm chủ được được mình, bên ngoài thì làm mất lòng người rồi. Tất cả đều thành nạn nhân của nhà tù. Đáng sợ nhất là nhà tù của đạo lý một cách bất hạnh. Tự do không phải là việc con người hành động một bừa bãi theo sở thích cá nhân nhất thời mà phải luôn đặt nó vào mối liên hệ với trách nhiệm và niềm tin vào những giá trị đạo đức tốt đẹp mà con người có thể đạt được trong nghĩa vụ đạo đức của mình. Tự do không phải là sự thỏa mãn sở thích cá nhân nhỏ hẹp, mà trái lại nó luôn gắn liền với những nguyên tắc đạo đức, pháp luật và trách nhiệm cá nhân trước hết đối với bản thân cũng như cộng đồng. Bởi tự do nâng cao đạo đức của công dân, vì khi tham gia ra quyết định, phải lắng nghe người khác, phải thay đổi mình cho phù hợp với người khác và phải suy nghĩ đến lợi ích của người khác và phải suy nghĩ đến lợi ích chung và lẽ phải trên đời. Thử hỏi có bao người giữ trọng trách hành xử như tiền nhân đòi hỏi về “tam bất hủ”, nghĩa là, lập đức, lập công và cuối cùng là lập ngôn? Chúng ta kiên định xây dựng một xã hội vì tất cả mọi người và cho mỗi người. Nếu ai đó làm trái thế, thử hỏi, lúc ấy, họ thất đức rồi, còn đâu là tự do nữa, huống gì nói tới hạnh phúc? Nhân dân trông đợi gì ở họ được nữa?  

Thế mới càng rõ, đạo đức là cuộc chiến lâu dài. Và, để sống trong nó, chúng ta không trừ một ai luôn phải cả đời chiến đấu với bản thân mình, trước hết vì mình và sau hết vì cộng đồng và xã hội. Giữ lấy đạo đức trên nền móng pháp luật và đạo lý, thì tự do và hạnh phúc, dù không cầu cũng tự chúng đến!

Nếu cả đất nước theo đó mà hành xử thử hỏi khi ấy Quốc tin sao không được tha nhân vị nể, trọng vọng; Quốc thể sao mà không khiến các nước khác không không thể ngoảnh mặt làm khinh kia chứ? 

Lại không ít người mệnh danh quyền lực và tự do tưởng tượng, mặc sức rao giảng đạo đức, thậm chí họ làm cả những việc trái đạo đức dưới cái cớ và cái vỏ đạo đức. Ở họ, tự do phân thân đạo đức hay hành xử lối đạo đức muôn mặt: có thứ “đạo đức cho người” và cả thứ “đạo đức cho ta”(!), thậm chí “miệng nam mô bụng một bồ dao găm”… để bồi đắp cho cái mặt nạ cái tôi đạo đức, khiến cho người hiền từ nhất cũng nổi giận và giời xanh nhân từ kia cũng phải giáng họa. Quả báo nhãn tiền. Khi luật pháp trở nên bạo ngược, ở họ, đạo đức bị buông thả, và ngược lại. Và, chính khi đó, tự do có thể bị đe dọa bởi sự lạm dụng tự do cũng như bởi sự lạm dụng quyền lực. Kiên quyết tẩy trừ sự man rợ: dùng vỏ đạo đức để che giấu cái vô đạo đức. Đó là tri hành! Không tranh với ai nên không ai tranh được với ta. Tiền nhân há chẳng từng nói: Biết kiềm chế tâm tính luôn là đức tốt; nhưng kiềm chế, bóp méo cả những nguyên tắc đạo đức luôn là sự xấu xa, đó sao.

Hơn nữa, khi quyền lực trao cho những người đạo đức, nó sẽ là công cụ để kinh bang tế thế, ngược lại nếu rơi vào tay những kẻ vô đạo đức, xã hội hỗn mang đã đành, nhưng quả báo đến lượt họ, quyền lực biến thành sợi dây để cầm tù họ, thậm chí là sợi dây để họ tự thắt cổ mình. Không phải đợi đến ngày “đời cha ăn mặn thì đời con khát nước” mà quả báo tức thì. Vô hình tự do và cả đạo đức đã bị bóp nghẹt và bị thủ tiêu. Hành động một cách thành tâm các nguyên tắc đạo đức, có thể nói, chính là đạt đến sự tự do một cách tự nhiên! Không thể cho phép và càng không thể dung thứ bất cứ một quyền tự do cá nhân nào tồn tại nếu nó chà đạp lên người khác, làm tổn hại chế độ chính trị và chia nhỏ lợi ích của quốc gia. Hạnh phúc chính là tự do trở thành chính mình. Nhưng, tự do tuyệt đối của cá nhân là sự điên cuồng, tự do tuyệt đối của một quốc gia ấy là sự hỗn loạn và đại bất hạnh. Pháp luật và dư luận xã hội trong tay chính quyền phải đi song trùng để giữ gìn và phát triển đạo đức xã hội và tư cách mỗi con người. Vì, đạo đức suy vi thì xã hội sẽ lụi tàn, tự do bị bóp nghẹt bởi sự vô pháp luật thì nhất định hạnh phúc bị chà đạp. Vì, hạnh phúc là sự cân bằng giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, giữa quốc gia này với quốc gia khác và giữa con người với giới tự nhiên một cách tự do. Đó là lẽ tất yếu nhưng thật hiện hữu để đạo đức, tự do và hạnh phúc nảy nở và thịnh vượng!

Hành xử một cách phi đạo đức và chà đạp lên cả các nguyên tắc đạo đức, vi phạm pháp luật như thế thì thử hỏi chính họ còn đâu thấy tự do. Đến lượt Nhân dân, nếu nơi đâu bị dẫn dắt bởi những hạng người đó, thử hỏi còn đâu thấy tự do hay hạnh phúc nữa?

Hạnh phúc ở ngay trong mỗi cá nhân, trong lòng dân tộc. Đường đi tới hạnh phúc bắt đầu từ đạo đức tới tự do…

Với mỗi người, vì thế, sự thất bại về pháp lý còn có thể sửa chữa được, nhưng sự thất bại về đạo đức, nhất định không thể có tự do, hạnh phúc và khó còn chốn để dung thân.

Và, với quốc gia, khi đạo đức bị coi nhẹ, pháp luật bị “khoanh vùng”, xét cho cùng, quốc dân không có bất cứ một sự tự do chân chính nào, ngoài thứ “tự do” bị làm nô lệ, độc lập dân tộc “tự do” bị cầm tù, quyền tự quyết bị phỉ báng và hạnh phúc của Nhân dân bị đày ải và gông cùm!

Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045
Chính trị

Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045

Lời Tòa soạn: Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, chưa bao giờ như hiện nay, vấn đề xây dựng và thực thi triết lý phát triển Đất nước lại đặt ra và thách thức gay gắt, đòi hỏi Việt Nam một sự nỗ lực vượt bậc, toàn diện. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, tăng tốc và kỳ vọng phát triển vượt bậc. Do đó, việc kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045 trở nên vừa cấp bách vừa mang tầm chiến lược. Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản với chủ đề: “Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045”.

Bài cuối: Biến quyết tâm thành hành động thực tiễn
Chính trị

Bài cuối: Biến quyết tâm thành hành động thực tiễn

Nghị quyết số 57 thể hiện cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc huy động sức mạnh toàn diện của hệ thống chính trị và xã hội nhằm tạo xung lực mới cho phát triển đất nước. Nghị quyết xác định đây là “cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện” cần được triển khai “quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài” với những giải pháp đột phá​. Nhiệm vụ hiện nay là biến quyết tâm đó thành hành động thực tiễn. Muốn vậy, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ của toàn hệ thống chính trị và các thành phần kinh tế – xã hội, từ quyết tâm của người lãnh đạo cho đến nỗ lực của từng người dân.

Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TP. Hồ Chí Minh Nguyễn Thanh Nghị phát biểu tại Hội thảo
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận - nền tảng cho mọi quyết sách

Nhấn mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận là nền tảng cho mọi quyết sách, tại Hội thảo khoa học quốc gia công tác lý luận của Đảng và những định hướng nghiên cứu quan trọng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, các đại biểu đề nghị, cần đẩy mạnh gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, các cơ quan nghiên cứu cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để triển khai các dự án thí điểm, từ đó rút ra bài học thực tiễn. Xây dựng mạng lưới học giả, nhà nghiên cứu hàng đầu nhằm phát triển các giải pháp lý luận sáng tạo.

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu tham dự phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Xây dựng Đảng về văn hóa bắt đầu từ chính mỗi đảng viên

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Trong rất nhiều công việc, cấp bách 6 trọng sự. Trước tiên là bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lenin - “lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi”(24) - Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định - một cách độc lập, sáng tạo nhằm cung cấp tri thức lý luận chính trị hết sức căn bản; đồng thời, đào tạo đảng viên một cách toàn diện về tri thức văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, tri thức lãnh đạo, quản lý, các kỹ năng “mềm”, năng lực công nghệ hiện đại… làm nền tảng xây dựng và phát triển văn hóa Đảng và văn hóa của đảng viên.

Toàn cảnh Phiên khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Chính trị

Bài 2: Dự báo những nhân tố phi văn hóa, phản văn hóa trong xây dựng, thực hành văn hóa của đảng viên

“Đảng ta không phải từ trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”(22). Hơn nữa, “Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng”(23).

Toàn cảnh Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Chính trị

Bài 1: Văn hóa Đảng - dòng chủ lưu và phát triển trong dòng chảy văn hóa dân tộc

Lời Tòa soạn: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, việc xây dựng và phát triển văn hóa đảng viên không chỉ là yêu cầu cấp thiết, mà còn là nền tảng cho sự bền vững của Đảng và dân tộc. Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, Nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản với chủ đề “Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh – Phát triển văn hóa của đảng viên trong kỷ nguyên mới”.

toàn cảnh Hội thảo
Chính trị

Lý luận phải đồng hành, vươn lên dẫn đường cho thực tiễn trong kỷ nguyên mới

Tại Hội thảo quốc gia về Công tác lý luận của Đảng và những định hướng nghiên cứu quan trọng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, các đại biểu nhấn mạnh, cần tiếp tục quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn gắn với đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu một cách thiết thực, khoa học, hiệu quả, bảo đảm lý luận phải đồng hành với thực tiễn và vươn lên dẫn đường cho thực tiễn trong kỷ nguyên mới.

Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII thảo luận nhiều vấn đề quan trọng chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng.
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Hết sức bền bỉ, công phu, tăng "sức đề kháng" để bảo vệ Đảng

Xây dựng văn hóa trong Đảng phải hết sức bền bỉ, công phu, thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp. Phải làm cho toàn Đảng, từng tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên có nhận thức đúng về văn hóa Đảng, làm văn hóa Đảng trở thành những giá trị đặc trưng cho một đảng cách mạng chân chính và hiện đại, thành nhu cầu trong Đảng và của đảng viên. Phải làm cho Đảng tăng sức đề kháng để bảo vệ mình vì suy đến cùng sức mạnh của Đảng là sức mạnh về văn hóa.

Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Quốc hội và Cử tri

Bài 3: Xây dựng những cán bộ tốt, đảng viên tốt

Trong bối cảnh hiện nay, nước ta phải hướng đến xây dựng những cán bộ tốt hay cụ thể hơn, đó là những đảng viên tốt. Đảng chú trọng công tác cán bộ vừa là quyền hạn nhưng cũng là trách nhiệm trước sự tồn vong của Đảng, sự hưng thịnh của đất nước, của chế độ. Để đi tới được kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thì Đảng phải quản trị cho được đội ngũ cán bộ thật sự toàn diện, nghiêm minh. Có được cán bộ, đảng viên tốt, văn hóa trong Đảng cũng tăng lên theo tỷ lệ thuận.

Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa.
Chính trị

Bài 2: Mỗi đảng viên tự nêu gương thì hàng triệu đảng viên là những tấm gương sáng

Để tiếp tục phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên trong xây dựng văn hóa Đảng, Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9.5.2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới đã được ban hành. Có thể thấy, nếu mỗi cán bộ, đảng viên, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hiểu rõ và tự giác thực hiện đầy đủ Quy định 144 - QĐ/TW, thì đây chính là công cụ hữu hiệu để ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, sự xói mòn về phẩm chất đạo đức, tệ tham ô, tham nhũng, lãng phí, xa rời quần chúng. Mỗi cán bộ, đảng viên tự nêu gương thì hàng triệu đảng viên sẽ là những tấm gương sáng, toàn Đảng sẽ thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với Nhân dân.

Toàn cảnh Hội thảo khoa học quốc gia những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng văn hóa trong Đảng trong giai đoạn mới ngày 15.1.2025
Chính trị

Bài 1: Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - hồn cốt của văn hóa trong Đảng

Lời Tòa soạn: Văn hóa trong Đảng là những giá trị văn hóa tốt đẹp mà Đảng ta đã lựa chọn, vun đắp, xây dựng, đổi mới và phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đó là những giá trị văn hóa được kết tinh từ truyền thống văn hóa dân tộc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; được tiếp thu, bổ sung những giá trị tinh hoa của văn hóa nhân loại trong thời đại mới, với nền tảng, hạt nhân là chủ nghĩa Mác-Lênin; được khơi nguồn, soi sáng và dẫn dắt bởi tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; được kiểm nghiệm, khẳng định trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Báo Đại biểu Nhân dân giới thiệu loạt bài về "Xây dựng văn hóa trong Đảng" với mong muốn cung cấp thêm thông tin về chủ đề đặc biệt quan trọng này.

Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang phát biểu khai mạc Hội nghị quán triệt, triển khai Luật Công đoàn 2024. Ảnh: Hải Nguyễn
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Minh chứng hùng hồn nhất bác bỏ những luận điệu xuyên tạc

Trước mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch và việc Việt Nam buộc phải cụ thể hóa quy định thành lập “Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp” theo cam kết quốc tế, tổ chức Công đoàn Việt Nam cần nâng cao vai trò, sứ mệnh của mình, để người lao động tin tưởng, gắn bó với “mái nhà chung” – nơi đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ. Đây là câu trả lời xác đáng, minh chứng hùng hồn nhất bác bỏ những luận điệu xuyên tạc.

Liên đoàn Lao động tỉnh Kiên Giang bàn giao nhà Mái ấm Công đoàn tặng đoàn viên công đoàn. Ảnh: Mỹ Linh
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 4: Vững tin trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc

Ngoài đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích đoàn viên, người lao động, Công đoàn Việt Nam luôn đi đầu phát động, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước; là chỗ dựa tinh thần vững chắc để công nhân, lao động tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, tin vào sứ mệnh của tổ chức Công đoàn Việt Nam. Qua đó, tăng sức đề kháng cho công nhân lao động trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trên không gian mạng.

Người biểu tình đốt phá nhà ở thủ đô Dhaka, Bangladesh vào tháng 7.2024
Chính trị

Bài 3: Mưu đồ chiến lược “không đánh mà thắng”

Việc các thế lực phản động trong nước, quốc tế câu kết với nhau, dùng con bài dân chủ, nhân quyền mà trực tiếp là con bài “Công đoàn độc lập” để ép Việt Nam phải đi theo quỹ đạo của chúng vạch ra thực chất là để thực hiện mưu đồ chiến lược “không đánh mà thắng”.

Biểu tình của Công đoàn Đoàn kết tại thành phố Kraków, Ba Lan, tháng 5.1989. Ảnh: Tư liệu
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 2: Làm xáo trộn niềm tin, gây mất đoàn kết

Thực chất con bài “Công đoàn độc lập” chỉ là cái vỏ. Mục đích của các thế lực thù địch trong, ngoài nước là làm cho niềm tin của công nhân, người lao động trong nước bị xáo trộn, gây mất đoàn kết để tiến tới mục tiêu xa hơn là tạo ra lực lượng đối lập, sử dụng phương thức đấu tranh bất bạo động, gây bất ổn chính trị tiến tới sử dụng “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” để lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Những bài viết kêu gọi thành lập công đoàn độc lập đăng tải trên không gian mạng
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 1: “Công đoàn độc lập” – “mũi tiến công số một”

Những năm gần đây, cụm từ “Công đoàn độc lập” được nhắc rất nhiều trên truyền thông đại chúng. Đặc biệt, từ cuối tháng 4, đầu tháng 5.2024, khi biết kế hoạch tổ chức Phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và Hội nghị thượng đỉnh Geneva về nhân quyền và dân chủ tổ chức, hàng loạt câu hỏi đặt ra là: tại sao lại có hiện tượng này; tổ chức nào và ai là những kẻ đứng sau; thực hiện nhằm mục đích gì trong khi tại Việt Nam có đầy đủ hệ thống công đoàn được pháp luật quy định?

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo tại cuộc họp với Thường trực các Tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng và Ban Chỉ đạo tổng kết 40 năm Đổi mới cho ý kiến về những chủ trương lớn vào Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Bài cuối: Phát triển nguyên tắc đổi mới và phát triển kỷ nguyên mới

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Đổi mới là một yêu cầu khách quan, một đòi hỏi của chính thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta, nhằm nhận thức đúng hơn về CNXH, khắc phục những mặt trì trệ, đẩy nhanh quá trình xây dựng xã hội XHCN một cách hợp quy luật, đạt hiệu quả cao, củng cố và tăng cường CNXH.

Bài 1: Mệnh lệnh phát triển đất nước và phát triển nguyên tắc kiến tạo kỷ nguyên mới
Chính trị

Bài 1: Mệnh lệnh phát triển đất nước và phát triển nguyên tắc kiến tạo kỷ nguyên mới

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Lời Tòa soạn: Để góp phần tổng kết lý luận và thực tiễn 40 năm đổi mới, chuẩn bị Đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng, Báo Đại biểu Nhân dân giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản với chủ đề “Mệnh lệnh đổi mới và phát triển nguyên tắc kỷ nguyên mới”.