Năm 2023, giảm nghèo bền vững ước đạt chỉ tiêu Quốc hội giao
Theo Đoàn giám sát "Việc triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2023", Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững là chương trình đầu tiên hoàn thành việc xây dựng, ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn ở cấp Trung ương. Trên cơ sở văn bản hướng dẫn của Trung ương, các địa phương đã triển khai ban hành văn bản theo đúng quy định.
Kết quả thực hiện các mục tiêu của Chương trình giảm nghèo bền vững trong Báo cáo của Đoàn giám sát cho thấy, năm 2021, Chương trình tiếp tục thực hiện chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020. Kết quả thực hiện mục tiêu giảm nghèo năm 2021 chưa đạt mục tiêu theo Nghị quyết số 124/2020/QH14 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021 giao là giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 1 - 1,5%. Năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo là 2,23%, giảm 0,52% so với năm 2020. Tỷ lệ hộ cận nghèo là 3,11%, giảm 0,6% so với năm 2020.
Năm 2022, tỷ lệ nghèo đa chiều giảm 1,83% (từ 9,35% xuống còn 7,52%), vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra là tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5% hàng năm. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm 1,17% (từ 5,2% xuống còn 4,03%), giảm 272.774 hộ nghèo (từ 1.330.148 hộ còn 1.057.374 hộ), đạt mục tiêu Nghị quyết 24/2021/QH15 ngày 28.7.2021 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 và Quyết định 90/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025. Cụ thể, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 4,89% (từ 25,91% xuống còn 21,02%), đạt mục tiêu Quyết định 90/QĐ-TTg đề ra là giảm trên 3%/năm...
Năm 2023, theo báo cáo của Chính phủ, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đạt chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao: ước tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều còn 2,93%, giảm 1,1%; tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo còn khoảng 33%, giảm 5,62%; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số còn khoảng 17,82%, giảm 3,2%. Dự kiến cuối năm 2023 sẽ có thêm 9 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn và được công nhận là xã hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới, tổng cộng 10/54 xã, đạt 61,73% so với mục tiêu Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao đến năm 2025 (30% số xã đặc biệt khó khăn thoát khỏi tình trạng nghèo).
4/6 dịch vụ xã hội cơ bản còn thiếu hụt
Cũng theo Đoàn giám sát của Quốc hội, giai đoạn 2021 - 2025 áp dụng 2 chuẩn nghèo khác nhau. Năm 2021, tiếp tục áp dụng chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020. Từ năm 2022 mới bắt đầu áp dụng chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025. Do đó, có những bất cập trong đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ nghèo đa chiều cho cả giai đoạn 2021 - 2025 theo yêu cầu của Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết 24/2021/QH15 của Quốc hội và Quyết định 90/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Mặt khác, kết quả thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều và giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều cũng không đánh giá được cả giai đoạn 2021 - 2025 mà chỉ đánh giá được giai đoạn 2022 - 2025 do năm 2021 vẫn thực hiện mục tiêu giảm nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020.
Đoàn giám sát của Quốc hội nhận định, vẫn còn 4/6 dịch vụ xã hội cơ bản mà hộ nghèo, hộ cận nghèo thiếu hụt nhất hiện nay là bảo hiểm y tế, vệ sinh, thông tin, việc làm, nhà ở; đòi hỏi các địa phương cần tiếp tục quan tâm, tập trung giải quyết.
Tỷ lệ hộ nghèo tại 74 huyện nghèo giảm, nhưng 52/74 huyện nghèo lại có tỷ lệ hộ cận nghèo tăng 0,2% với số hộ tăng là 4.027 hộ (từ 159.569 hộ lên 163.596 hộ). Điều đó cho thấy, kết quả thực hiện giảm tỷ lệ hộ nghèo chưa bền vững.
Theo mục tiêu đến năm 2025 sẽ có 22/74 huyện được hỗ trợ theo Quyết định 880/QĐ-TTg về phê duyệt một số nội dung hỗ trợ 22 huyện nghèo thuộc 17 tỉnh thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn giai đoạn 2022 - 2025 thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn; 22 huyện này đến năm 2025 phải đạt 3 mục tiêu. Tuy nhiên, đánh giá hàng năm mới chỉ dừng lại ở việc thông tin 1/3 mục tiêu, đó là về giảm tỷ lệ nghèo đa chiều hàng năm. Nếu chỉ căn cứ vào mục tiêu này thì có 8/22 huyện năm 2022 không đạt mục tiêu giảm tỷ lệ nghèo đa chiều từ 6 - 7%/năm (cụ thể Quản Bạ: 5,44%; Bắc Mê: 3,46%; Trùng Khánh: 1,77%; Tuần Giáo: 4,67%; Mường Ảng: 4,5%; Phong Thổ: 4,32%; Tri Tôn: 1,25%). 12/22 huyện này có tỷ lệ hộ cận nghèo tăng. Điều đó đặt ra vấn đề về tính khả thi, thực chất kết quả thực hiện mục tiêu thoát nghèo của 22 huyện nghèo vào cuối năm 2025 theo Quyết định 880/QĐ-TTg.
Đoàn giám sát của Quốc hội cũng nhận định, giảm nghèo đa chiều là một tiêu chí chung gắn với các mục tiêu của 3 Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025. Tuy nhiên thực tế làm việc tại một số địa phương cho thấy, có tình trạng “chạy theo thành tích” để được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, trong khi tiêu chí 11 về tỷ lệ giảm nghèo đa chiều và một số tiêu chí, như số 10 về thu nhập, số 9 về nhà ở dân cư, số 13 về tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế nông thôn tại các địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là tại xã, thôn đặc biệt khó khăn khi đạt chuẩn nông thôn mới, đời sống, điều kiện và chất lượng sống của người dân chưa thực sự được cải thiện, nâng cao. Mặt khác, người dân lại không tiếp tục được Nhà nước có các chính sách hỗ trợ về y tế, giáo dục, an sinh xã hội… sau khi đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nên hiệu quả bền vững của công tác giảm nghèo nói riêng, tác động của 3 Chương trình mục tiêu quốc gia phần nào có hạn chế.
Tới đây, Đoàn giám sát của Quốc hội đề nghị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách giảm nghèo đa chiều gắn với mục tiêu phát triển bền vững, chuẩn nghèo đa chiều quốc gia phải gắn với mức sống tối thiểu tăng dần hàng năm và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân. Xây dựng, ban hành chính sách bảo trợ xã hội đối với hộ nghèo không có khả năng lao động theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030. Ưu tiên tập trung nguồn lực hỗ trợ đầu tư để huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn thoát nghèo; ban hành chính sách hỗ trợ giảm nghèo có điều kiện; tăng nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội cho giảm nghèo.
Đoàn giám sát đề nghị, có chính sách khuyến khích doanh nghiệp và hợp tác xã liên kết trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, phát triển đa dạng các mô hình sản xuất có sự tham gia của các hộ nghèo, cận nghèo; hỗ trợ phát triển các mô hình sản xuất kinh doanh phù hợp với người nghèo, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi. Đẩy mạnh thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội liên vùng, tăng cường kết nối vùng đã phát triển với vùng khó khăn; có chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư ở những địa bàn khó khăn, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Đặc biệt, cần phát huy tinh thần trách nhiệm, hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong xây dựng, triển khai thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia. Bảo đảm thông tin công khai, minh bạch, kịp thời, không đùn đẩy, né tránh trách nhiệm trong rà soát, phát hiện, xử lý, giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia. Phân cấp, phân quyền gắn với việc xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhất là trách nhiệm người đứng đầu trong công tác chỉ đạo thực hiện giảm nghèo bền vững.