Giá trị tư tưởng lý luận về chủ nghĩa xã hội từ các tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Bài 3: Kiến tạo xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam: đặc trưng và mô hình

TS. NHỊ LÊ - Nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản

Xét cho cùng, toàn bộ việc tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận là nhằm tới mục đích góp phần trực tiếp xây dựng một đường lối chính trị độc lập, sáng tạo và phù hợp của Đảng để dẫn dắt công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lịch sử cách mạng nước ta 93 năm qua, xác nhận: Do kiên định và phát triển linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó tìm đúng bản chất, tính quy luật và quy luật vận động riêng của xã hội Việt Nam và xu thế vận động chung của thời đại một cách sáng tạo; đồng thời, đấu tranh kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi mọi biểu hiện và di họa của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cơ hội..., Đảng ta đã xây dựng thành công một đường lối cách mạng đúng đắn.

Kết hợp hữu cơ giữa tổ chức thực tiễn và phát triển lý luận

Đó chính là một trong những bài học lịch sử vô giá làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam, góp phần vào sự phát triển sáng tạo và bảo vệ thành công chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở bảo đảm sự thống nhất giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng nhằm vừa nâng cao trình độ lý luận vừa đẩy mạnh năng lực tổ chức thực tiễn cách mạng.Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo: “Đổi mới vì chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp vô cùng khó khăn, mới mẻ, chưa có tiền lệ, thực tiễn còn đang vận động, ý kiến thường rất khác nhau. Chỉ có tiếp tục đổi mới tư duy, thực sự cầu thị, phát huy tự do tư tưởng, vừa kiên định vừa vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đi sâu vào tổng kết thực tiễn, chúng ta mới có thể từng bước giải đáp được những vấn đề đặt ra…”(25)

Do đó, tổ chức tốt thực tiễn, kịp thời và thường xuyên tổng kết kinh nghiệm thực tiễn là con đường duy nhất đúng để phát triển lý luận cách mạng. Lịch sử cách mạng nước ta xác nhận: Từ thực tiễn phát triển của xã hội Việt Nam, Đảng ta hiện thực hóa sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tìm bản chất, quy luật vận động đặc thù của Việt Nam, đề ra đường lối độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo cho cách mạng Việt Nam. Và, đây là một trong những kinh nghiệm lớn làm nên bản lĩnh và sức mạnh cầm quyền của Đảng, góp phần phát triển của lý luận, đáp ứng nhu cầu nội tại của sự nghiệp đổi mới.

Trong việc tổng kết kinh nghiệm, trước hết phải bám sát thực tiễn đất nước, phát hiện, tìm tòi những hình thức, bước đi, phương pháp phù hợp cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Cố nhiên, trong sự vận động đa dạng và phức tạp đó, phải nhận rõ nét bản chất nhất, xu hướng có tính chủ đạo của hiện thực chứ không phải là thực tế của một phương diện nào đó, cho dù là quan trọng. Cần kế thừa nhưng biết phủ định biện chứng nhằm bảo đảm sự nhất quán và phát triển liên tục trong quá trình xây dựng các quan điểm lý luận và thực tiễn ở nước ta. Các kinh nghiệm phải tiếp tục được khảo nghiệm trong thực tế để kiểm nghiệm, nghiêm túc tiếp thu những sáng tạo của quần chúng, của cơ sở để không ngừng phát triển, bổ sung đó theo sự phát triển của thực tiễn đất nước làm cơ sở cho việc phát triển lý luận, trực tiếp hoạch định đường lối của Đảng. 

Đồng thời, không ngừng thâu thái, phân tích và tiếp thụ có chọn lọc các kinh nghiệm của các nước trên thế giới và trong khu vực với thái độ thực sự cầu thị không kỳ thị, không xa lánh, với phương pháp độc lập, sáng tạo không rập khuôn và không thực dụng. Đó chính là con đường hiệu quả nhất để khắc phục sự chủ quan, duy ý chí, sự thiển cận bảo đảm sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thật sự khoa học và sáng tạo vừa đáp ứng với những yêu cầu phát triển của đất nước vừa phù hợp với xu thế vận động của thời đại, góp phần vào việc phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội. 

Toàn bộ các công việc trên đây, xét về thực chất, là nhằm tới mục tiêu xác lập một đường lối độc lập, tự chủ sáng tạo về lý luận của Đảng ta chỉ đạo thắng lợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu: “Lý luận phải vươn lên dẫn đường và đồng hành với thực tiễn”(26). Chỉ có như thế, Đảng ta mới xây dựng thành công một đường lối chính trị sáng tạo, đúng đắn, được thực tiễn thừa nhận và chứng minh, được nhân dân ủng hộ. Đến lượt mình, chỉ qua thực tiễn lãnh đạo và tổ chức thực tiễn công cuộc đổi mới theo đường lối chính trị ấy, Đảng ta mới có thể không ngừng trưởng thành về mọi mặt, nhất là về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ.

Có thể nói, đất nước không thể tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách đúng hướng và bền vững, nếu thiếu sự định hướng đúng đắn, một mô hình phù hợp, con đường rõ ràng, cơ chế vận hành xã hội thật sự khoa học và hiệu quả,... thậm chí sẽ đi tới chỗ thất bại nếu cắt rời hay hạ thấp bất cứ mặt nào. Đó là một chỉnh thể vấn đề: Từ lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội tới định hướng XHCNđến định hình, định vị chủ nghĩa xã hội hoạch định con đường XHCN Việt Nam. Đó cũng chính là những thành tố tạo nên chỉnh thể và sự toàn vẹn của thực tiễn sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

Nắm vững bất biến và linh hoạt khả biến

Kế thừa, phát triển độc lập và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát triển sự lựa chọn và phát triển con đường XHCN của dân tộc Việt Nam 93 năm qua mà ngay từ những năm 1920, Chủ tịch Hồ Chí Minh khai phá - và một lần nữa khẳng định, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập dân tộc, đem lại cho mọi người, mọi dân tộc một cuộc sống tự do, được tôn trọng và hạnh phúc: “Chúng ta cần một xã hội phát triển vì con người, không bóc lột người, không xâm phạm nhân phẩm vì lợi nhuận”(27).         

Bước quá độ đặc thù trong đặc thù, gián tiếp của gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội đó của Việt Nam đã không thể không in dấu ấn rất đậm nét, thậm chí chi phối nhịp đi, tốc độ cũng rất đặc thù của con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội là, tất cả của con người, do con người, cho con người và vì con người. 6 đặc trưng của xã hội XHCN mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, mà chúng ta nỗ lực xây dựng quyết tâm thực hiện mục tiêu cao cả và thiêng liêng đó. Trong 6 đặc trưng của xã hội XHCN mà chúng ta xây dựng, có 3 đặc trưng trực tiếp đề cập tới con người: "Nhân dân làm chủ", "con người được giải phóng... phát triển toàn diện cá nhân", "các dân tộc... đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ". Đây chính là một lợi thế so sánh, một bước tiến quan trọng trong nhận thức và hành động thực tiễn của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội so với trước đây. Con người Việt Nam vừa là chủ thể vừa là động lực vừa là mục tiêu đồng thời là thước đo sự phát triển và là mệnh lệnh phát triển Việt Nam trong thế kỷ XX và XXI.

Đó là góc nhìn đột phá, mới mẻ về nhân tố con người, trên phương diện xã hội. Nhưng chúng ta biết, toàn bộ đời sống của con người không chỉ có vậy và cũng không phải chỉ thuần túy có quan hệ con người với con người về mặt xã hội. Vì, chúng ta, với cả xương, thịt, máu và bộ não của chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên và chúng ta nằm trong giới tự nhiên, như F.Angel nói, do đó, không thể "sống bên ngoài giới tự nhiên". Vì vậy, quan hệ giữa con người với tự nhiên là đặc tính thứ hai tất yếu cùng với quan hệ về mặt xã hội của con người.

Về yếu tố xã hội, lâu nay, thường chỉ nhấn mạnh một vấn đề: cần hạn chế phát triển dân số để giảm sức ép đối với môi trường. Thực ra, vấn đề phát triển, các yếu tố xã hội, mối quan hệ giữa con người với con người, có ý nghĩa quan trọng không kém các yếu tố tự nhiên, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Không thể giải quyết tốt mối quan hệ giữa con người với tự nhiên nếu không giải quyết tốt mối quan hệ giữa con người với con người. Kết hợp hữu cơ giữa "cái kinh tế" và "cái xã hội", giữa "hiệu quả kinh tế" và "hiệu quả xã hội" mới đưa xã hội tới ổn định và phồn vinh. Đó là hai mặt của vấn đề phát triển hiện đại.

Đất nước muốn phát triển bền vững phải vì con người và do con người; kết hợp yêu cầu của sinh thái tự nhiên với yêu cầu của sinh thái văn hóa, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo đảm chất lượng cuộc sống cho mọi người và công bằng xã hội. Nghĩa là, phải nhằm tới bảo đảm tính công bằng (về phương tiện và cơ hội tìm việc làm, thu nhập, sử dụng tài nguyên và mức sống), bảo đảm tính bền vững (bảo vệ tài nguyên sinh thái) và tính vì  mọi người (không gây phân cách và xung đột xã hội, mọi người được lao động và hưởng thụ thành quả lao động của mình, được tôn trọng nhân cách...). Mỗi người phải được tạo điều kiện chăm lo cho cuộc sống của mình và của cộng đồng, tự giác chăm lo bảo vệ môi trường trong sản xuất, kinh doanh cũng như trong đời sống. Phải bảo đảm sự phát triển hài hoà giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và sinh thái vì lợi ích của mỗi người và của toàn xã hội, của thế hệ hiện nay và các thế hệ mai sau, nhằm tránh cuộc tái khủng hoảng kinh tế - xã hội hoặc các cuộc khủng hoảng có tính cục bộ trên con đường phát triển.

Bởi vậy, việc phát triển mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trước mắt với tầm nhìn năm 2045 - năm của mục tiêu nước ta trở thành một nước phát triển - càng không thể không thực thi hiệu quả vấn đề này. Đây chính là một điều kiện, một nội dung, một bảo đảm để nước ta phát triển bền vững cả về xã hội và sinh thái, thể hiện ưu thế rõ rệt của chủ nghĩa xã hội. Vì xét cho cùng, giới tự nhiên và lịch sử vẫn là hai yếu tố hợp thành của một môi trường trong đó chúng ta sống, vận động và tự biểu hiện. Cải cách các khu vực xã hội, các vấn đề về môi trường phải là các vấn đề cần có vị trí cao trong chương trình nghị sự của cả Việt Nam lẫn cộng đồng tài trợ. Và nhìn một cách tổng thể có ý nghĩa chiến lược, vấn đề trên đây phải được coi là một trong những đặc trưng quan trọng của xã hội XHCN Việt Nam nhằm thực hiện bước chuyển từ một xã hội tồn tại sang một xã hội có một hệ thống cơ cấu hài hòa.

Từ xuất phát điểm như vậy, kế thừa những thành tựu lý luận và qua thực tiễn gần 11 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), càng phải nhấn mạnh và phát triển mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gồm 8 đặc trưng.

Đây là thành quả của công cuộc đổi mới, với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Đó là tương lai phát triển tất yếu của Việt Nam trong thời đại ngày nay.

Đây là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù,” cái chung và cái riêng để tạo nên mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

Phát triển sự thống nhất trong tính đa dạng sáng tạo XHCN

Thực tiễn XHCN những năm 90 của thế kỷ XX xác nhận: Thất  bại là con đường chung, nhưng thành công lại là những con đường riêng phong phú và độc lập theo nguyên tắc chung.  

Nhìn lại 93 năm qua, con đư­ờng XHCN Việt Nam dù gập ghềnh thì hình hài, vóc dáng và hệ tố chất của nó càng hiện dần lên qua mỗi chặng đư­ờng vận động của lịch sử dân tộc. Từ con đường với tư­ cách là mục tiêu, lý tưởng tới con đ­ường là sự vận động hiện thực của đất nư­ớc để v­ươn tới mục tiêu lý t­ưởng đó; từ con đư­ờng là hiện thực còn sơ khai, giản l­ược tới con đường ngày càng rõ nét, toàn diện và hoàn thiện hơn, dẫn tới gần mục tiêu hơn, thông qua hàng loạt bư­ớc phủ định biện chứng: phủ nhận chế độ thuộc địa, nửa phong kiến; phủ nhận chế độ tư­ bản chủ nghĩa trong mỗi b­ước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; phủ nhận mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu cũ… Và cứ nh­ư vậy, chúng ta bư­ớc đầu xác lập một khái niệm với nội hàm khá đầy đủ và hệ thống về chủ nghĩa xã hội: Vừa là mục tiêu lý t­ưởng, vừa là sự vận động hiện thực rộng lớn của đất n­ước vừa là một chế độ xã hội - chính trị Việt Nam phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại.            

Việt Nam hội tụ đủ tất cả các điều kiện để thực hiện một sự lựa chọn và phát triển lịch sử độc lập của riêng mình.

Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là sau 35 năm đổi mới, ngày càng khẳng định ý nghĩa của những tìm tòi của Đảng ta về xã hội XHCN. Thành công nổi bật nhất là, Đảng lãnh đạo dân tộc giải quyết các mối quan hệ trong quá trình vừa “đoạt lấy những thành quả do nền sản xuất tư bản chủ nghĩa làm giàu cho nhân loại mà không phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, vừa “nắm được những thành tựu của thời đại tư sản, nắm được thị trường thế giới và các lực lượng sản xuất hiện đại, và làm cho những cái ấy phải chịu sự kiểm soát chung…”.  Càng độc lập và sáng tạo càng có nhiều cơ hội phát huy sự năng động trong công cuộc đưa nước ta “trở thành điểm xuất phát trực tiếp của chế độ kinh tế mà xã hội hiện nay đang hướng tới”, nhất là trong việc “đoạt lấy thành quả” hay “mượn tiền đề của chủ nghĩa tư bản” hiện nay để thực hiện sự “rút ngắn và giảm bớt được những cơn đau đẻ” không đáng có. Sự rập khuôn, máy móc, du nhập mô hình nước ngoài một cách cứng nhắc sẽ dẫn đến thất bại. Đảng ta càng quyết tâm đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển cả về quy mô, tính chất và chiều sâu nền kinh tế thị trường định h­ướng XHCN và coi đây là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gắn chặt với việc bảo đảm các vấn đề xã hội, trong mỗi bước đi. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của thế giới, khi quy mô và tốc độ toàn cầu hóa kinh tế đang mở rộng và tăng tốc không ngừng, khi kinh tế tri thức đang phát triển mạnh mẽ và tạo nên những xung lực mới, những cuộc bứt phá, đảo lộn với tốc độ vô cùng lớn; khi nền văn minh chính trị và tiến bộ thế giới không ngừng phát triển… Nó đòi hỏi không chỉ sự kết tinh và phát triển toàn diện nội lực đất nước đủ mạnh sau nhịp 35 năm, tạo dựng nền tảng cho sự hội nhập và phát triển mới mà còn chủ động không ngừng thâu thái tất cả các ngoại xung lực, hướng tới sự phát triển mạnh mẽ và bền vững, tương dung với xu thế phát triển của thế giới đương đại đang vận động và phát triển một cách đa dạng nhưng thống nhất một cách phức tạp khôn lường.

Hiện nay, hơn bao giờ hết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”(28).

Việt Nam làm bật lên và khẳng định mục tiêu bất di bất dịch, cao cả và thiêng liêng: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội gắn liền với độc lập dân tộc. Đó chính là con đường xuất phát từ thực tế Việt Nam, thực hiện bằng phương thức, bước đi đặc thù Việt Nam, kiến tạo nên xã hội XHCN mang bản sắc Việt Nam. Đó là con đư­ờng phát triển XHCN có tínhchất rút ngắn biện chứng. Đó cũng chính là con đ­ường nhỏ trong con đư­ờng lớn toàn nhân loại tất yếu tiến lên chủ nghĩa xã hội; một bộ phận, một biểu hiện cụ thể của xu thế phát triển tất yếu của thời đại ngày nay - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư­ bản lên chủ nghĩa xã hội.

Và, đó cũng là bước phát triển,trưởng thành to lớn và toàn diện của Đảng trong sứ mệnh là người khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc.

______

(25) GS. TS. Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Sđd, tr.173.

(26)Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.273.  

(27)Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.22.  

(28) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đê về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.37 - 38.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Cán bộ chiến sĩ công an Nhân dân tuyên tuyền pháp luật cho đồng bào dân tộc Sán Chỉ, tỉnh Quảng Ninh- Ảnh Tư liệu
Chính trị

Nhận diện, đấu tranh hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới

Triệt để lợi dụng xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sự bùng nổ của internet - mạng xã hội và những khó khăn, thách thức của đất nước, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội phản động ráo riết, đẩy mạnh hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước ta. Do vậy, việc bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Hồi chuông cảnh báo, cốt để sửa mình

Nỗ lực trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cần được ghi nhận. Những cáo buộc phi lý cần được vạch trần. Tuy nhiên, cũng cần nhìn thẳng, nói thật, “gióng lên hồi chuông cảnh báo” về một số “yếu điểm” của trận chiến phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để kịp thời chấn chỉnh.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhấn mạnh: “Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phải phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, không vì đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực mà ảnh hưởng, cản trở phát triển kinh tế, xã hội”. Ảnh: Trí Dũng
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 1: Thông điệp mạnh mẽ của Đảng

Lời Tòa soạn: Thời gian qua, bên cạnh sự ủng hộ, nhất trí, đồng lòng của các cấp ủy Đảng, chính quyền và Nhân dân, trong dư luận đã nảy sinh một số ý kiến “lạc dòng” nhằm ngăn trở công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta. Vậy nên, việc lan tỏa thông điệp mạnh mẽ của Đảng; nhận diện và phản bác các luận điệu thù địch; nhìn thẳng vào những vấn đề cần kíp đang đặt ra, bật chuông cảnh báo toàn hệ thống để phòng, chống “từ sớm, từ xa, cả ngọn lẫn gốc” là rất cần thiết.

Toàn cảnh Phiên khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Đảng ta ngày càng xứng đáng là người lãnh đạo, đảm đương trọng trách dẫn dắt đất nước phát triển mạnh mẽ, bền vững, nhân văn trên con đường XHCN

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Một nội dung quan trọng trong đổi mới phương thức, lãnh đạo cầm quyền của Đảng ta hiện nay, đó là kiểm tra, kiểm soát, giám sát và thanh tra một cách dân chủ, chặt chẽ, cụ thể, phù hợp đối với quyền theo trách nhiệm. Kiểm soát quyền lực luôn là công việc trung tâm tuy rất khó khăn, luôn là nguy cơ sinh tử của mọi thể chế dân chủ. Quyền lực luôn thu hút những kẻ không có đạo đức. Sự nghiêng ngả, sụp đổ của một số thể chế chính trị trên thế giới, một trong những nguyên nhân là, do đánh mất vai trò kiểm soát, phá vỡ và đánh mất sự cân bằng quyền lực chính trị của đảng cầm quyền.

Toàn cảnh Phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 3: Đổi mới phương thức lãnh đạo - nhân tố quyết định thành công công việc lãnh đạo, cầm quyền của Đảng

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Một nội dung quan trọng nữa trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền đó là đổi mới và thực thi nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc căn bản quán xuyến toàn bộ việc hoạch định và xác quyết đường lối chính trị lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Đường lối chính trị, đường lối tổ chức và đường lối cán bộ là 3 trong số những quyết định khó khăn nhất nhưng quyết định nhất của nội dung cầm quyền mà phương thức lãnh đạo, cầm quyền phải thực thi bảo đảm công cuộc lãnh đạo, cầm quyền của Đảng thành công.

Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương Nguyễn Văn Thể và Tổng Giám đốc VOV trao cho các tác phẩm đạt giải nhì
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Trao giải Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng năm 2024 Khối các cơ quan Trung ương

Sáng 1.10, tại Hà Nội, Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương và 5 cơ quan báo chí của Trung ương gồm: Báo Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam phối hợp tổ chức “Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng năm 2024 trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương”.

Toàn cảnh Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 1: Thách thức mới, yêu cầu phát triển mới

Lời Tòa soạn:Sau 40 năm Đổi mới đã mở ra một kỷ nguyên phát triển và hội nhập đầy cơ hội nhưng đồng thời cũng không ít thách thức cho đất nước ta. Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc Đổi mới toàn diện, đồng bộ trong tầm nhìn tới năm 2045, trước mắt tới năm 2030, cấp bách đòi hỏi Đảng ta cần kíp lựa chọn đột phá đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền đáp ứng ngang tầm nhiệm vụ lịch sử mà Dân tộc giao phó và Nhân dân ủy thác. Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản xoay quanh chủ đề “Không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng hiện nay”.

Bài 1: Đổi mới thể chế và tăng trưởng, phát triển
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 1: Đổi mới thể chế và tăng trưởng, phát triển

Lời Tòa soạn: Bài học lớn của công cuộc đổi mới gần 40 năm qua khẳng định, sau khi có đường lối đúng đắn, động lực căn bản quyết định thành công của mọi sự phát triển chính là con người và thể chế. Nói cách khác, để phát triển, trước hết và trung tâm chính là kiến tạo thể chế tương dung và phù hợp. Để góp phần làm rõ hơn vấn đề này, Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản với chủ đề: “Thể chế và phát triển”.

Người dân xã Đông Á, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình tập trung tại trụ sở UBND xã để phản đối Dự án xây dựng nhà máy xử lý rác
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Tăng sức đề kháng trước âm mưu chống phá trước Đại hội Đảng và bầu cử Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp

Trước thềm Đại hội đại biểu Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng, bầu cử ĐBQH Khóa XVI, bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031, các thế lực thù địch đang ra sức khai thác những mâu thuẫn, xung đột trong xã hội, tâm lý bức xúc của người dân khi quyền lợi chưa được giải quyết, kích động gia tăng phức tạp, lôi kéo đông người tham gia, gây mất ổn định xã hội, chuyển thành các hoạt động chống Đảng, Nhà nước...

Bài cuối: Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - tài sản vô giá, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng, dân tộc ta
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - tài sản vô giá, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng, dân tộc ta

THS. PHẠM THỊ THINH - Phó Giám đốc - Phó Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử cực kỳ quan trọng, kết tinh tư tưởng, văn hóa, trí tuệ, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một bậc vĩ nhân, Người "đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.

Bài 1: Không thể xuyên tạc giá trị bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 1: Không thể xuyên tạc giá trị bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

THS. PHẠM THỊ THINH - Phó Giám đốc - Phó Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, Người là tấm gương sáng ngời, mẫu mực của người chiến sĩ cộng sản kiên trung, dành trọn cuộc đời vì nước, vì dân. Trước khi “đi xa” về cõi vĩnh hằng, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta bản Di chúc thiêng liêng, vô giá.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài và Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam Nguyễn Đức Lợi trao chứng nhận giải Nhất cho PGS.TS Đinh Văn Châu
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

PGS.TS Đinh Văn Châu đạt giải Nhất Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong ngành công thương năm 2024

Vượt qua 560 tác phẩm dự thi, tác phẩm “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tự hào dân tộc gắn với xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội cho thanh niên, sinh viên Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Đinh Văn Châu đã được Ban Tổ chức trao giải Nhất cuộc thi viết Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ngành công thương.