Dù là ngành học mới, cơ hội việc làm của cử nhân Quản trị Công nghệ giáo dục rất rộng mở, với nhiều hướng phát triển.
Báo Đại biểu Nhân dân đã có trao đổi với Tiến sĩ Tôn Quang Cường, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ Giáo dục, Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) - để tìm hiểu kỹ hơn về ngành học này.
Bùng nổ và đột phá của công nghệ giáo dục
- Thưa Tiến sĩ Tôn Quang Cường. Quản trị Công nghệ giáo dục được đánh giá là ngành học vô cùng tiềm năng trong xu hướng phát triển hiện nay. Ông có thể cho biết xu hướng và định hướng phát triển của công nghệ giáo dục cũng như ngành Quản trị Công nghệ giáo dục?
Tiến sĩ Tôn Quang Cường: Trong thời gian tới, chắc chắn chúng ta sẽ chứng kiến sự bùng nổ và đột phá của công nghệ giáo dục. Điều này không chỉ được mang tới từ làn sóng phát triển công nghệ nói chung, mà ngay trong nội tại ngành giáo dục cũng đang rất cần có những định hình lại, có sự phát triển đòi hỏi đột phá, đổi mới sáng tạo.
Đối với Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội), khi mở ngành Quản trị Công nghệ giáo dục, chúng tôi có kỳ vọng sẽ đào tạo được một thế hệ nguồn nhân lực không chỉ có kiến thức, kỹ năng và năng lực để khắc chế công nghệ trong tương lai; mà còn có thể tích hợp các công nghệ đó vào trong quá trình giáo dục. Đồng thời, chúng tôi cũng hướng tới việc đào tạo nguồn nhân lực có khả năng quản trị xu hướng.
Ngay trong các nhà trường hiện nay, có thể thấy rằng hệ thống công nghệ, môi trường công nghệ, tương tác, chuyển đổi số,… đã phổ biến. Nhưng chúng ta rất cần đội ngũ “đi trước đón đầu”, tạo ra những định hướng, cơ hội để tiếp tục bồi dưỡng, phát triển quá trình tích hợp công nghệ vào giáo dục.
Ở khía cạnh khác, chúng tôi cũng kỳ vọng sẽ định hình những mô hình, hình thái giáo dục mới. Trước đây, chúng ta vẫn chủ yếu giáo dục theo “mặt giáp mặt”, theo những mô hình trong một thiết chế nhà trường. Hiện nay, với sự hỗ trợ của công nghệ, trên nền tảng công nghệ, chúng ta hoàn toàn có thể tạo ra những mô hình giáo dục hiện đại.
2 năm dịch Covid-19 vừa qua đã chứng kiến một mô hình giáo dục mà ở đó cơ hội học tập, môi trường học tập mang tính tương tác rất cao dựa trên nền tảng công nghệ. Môi trường tương tác không nhất thiết phải gặp mặt cùng một thời gian, địa điểm. Bên cạnh đó, những nguồn học liệu số cho phép người học và người dạy có thể tương tác với nhau rất mạnh.
Chúng ta cũng chứng kiến những biến đổi khi có sự xuất hiện của ChatGPT, trí tuệ nhân tạo, công nghệ thực tế ảo tăng cường,…
Tất cả đặt ra bài toán làm thế nào để có đội ngũ chủ động thích ứng và tiếp tục sáng tạo, đổi mới. Đó chính là những điều chúng tôi kỳ vọng vào nguồn nhân lực được đào tạo bởi ngành Quản trị Công nghệ giáo dục.
- Nhu cầu việc làm của thị trường lao động ngành Quản trị Công nghệ giáo dục ra sao? Trong xu hướng phát triển hiện nay, ngành học này có gặp thách thức gì không, thưa ông?
Tiến sĩ Tôn Quang Cường: Khách quan mà nói, bất kỳ ngành đào tạo mới nào cũng sẽ có những thuận lợi và khó khăn.
Về khó khăn, chúng ta sẽ phải đào tạo, đưa vào chương trình những vấn đề rất mới, chưa từng có tiền lệ. Đội ngũ được huấn luyện, đào tạo để thực hiện chương trình cũng rất mới. Thứ ba là thách thức về mặt công nghệ. Công nghệ thay đổi liên tục, đòi hỏi kết cấu, thiết chương trình đào tạo phải rất linh hoạt, mở và luôn được cập nhật.
Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh rằng cơ hội của ngành này rất rộng mở. Sau khi trải qua chương trình đào tạo, các cử nhân Quản trị Công nghệ giáo dục hoàn toàn có thể thích ứng ngay với thị trường công nghệ mạnh. Theo số liệu thống kê, ở Việt Nam hiện có gần 700 các doanh nghiệp công nghệ giáo dục (Edtech).
Bên cạnh đó, nhu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, tin học hóa, số hóa, quy trình hóa dựa trên nền tảng công nghệ đang rất lớn; đòi hỏi phải có người hiểu biết, có kỹ năng, kinh nghiệm để làm những việc này. Một ưu điểm khác là lĩnh vực công nghệ giáo dục không bị giới hạn trong một quốc gia, địa phương mà sẽ tạo thành mạng lưới rất mạnh để sử dụng nguồn nhân lực chung, nền tảng chung, cơ sở dữ liệu chung, từ đó phát triển giáo dục.
Do vậy, cơ hội đổi mới sáng tạo, cơ hội tạo ra việc làm và cơ hội tạo ra những sản phẩm mới có giá trị trong lĩnh vực công nghệ giáo dục rất lớn.
"Câu chuyện số" từ trong nhà trường
- Ông có thể chia sẻ, sinh viên theo học ngành Quản trị Công nghệ giáo dục sẽ được trang bị các kiến thức, kỹ năng như thế nào?
Tiến sĩ Tôn Quang Cường: Kết cấu chương trình đào tạo của chúng tôi rất linh hoạt, nhưng sẽ có 3 nhóm kiến thức cơ bản.
Nhóm thứ nhất liên quan tới vấn đề giáo dục. Khoa Các khoa học Giáo dục thuộc Trường Đại học Giáo dục sẽ có trách nhiệm cùng kết nối để hỗ trợ đào tạo.
Nhóm thứ hai liên quan tới công nghệ. Sinh viên có thể được làm việc, tiếp xúc, nghiên cứu, thậm chí tham gia sâu vào các công việc cùng các nhà kỹ thuật, công nghệ của Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Công nghệ thông tin, Đại học Quốc gia Hà Nội. Chúng tôi thực hiện cơ chế phối thuộc linh hoạt.
Nhóm kiến thức thứ ba là sáng tạo, đổi mới, phát triển để định hình ra công nghệ giáo dục, thay vì chỉ thuần túy ứng dụng công nghệ vào giáo dục.
Một điểm nhấn trong chương trình đào tạo cử nhân Quản trị Công nghệ giáo dục là chúng tôi có chương trình rèn nghề ngay từ năm thứ nhất. Sau đó từng bước từ năm đầu tới năm cuối, sinh viên sẽ được thâm nhập vào thực tiễn triển khai quá trình tạo ra sản phẩm của công nghệ giáo dục. Trên cơ sở đó, các em bắt đầu có những kỹ năng, ý tưởng để khởi nghiệp sáng tạo, tạo ra giải pháp công nghệ mới ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường.
Lứa sinh viên khóa đầu tiên theo học Quản trị Công nghệ giáo dục tại Trường Đại học Giáo dục sắp tốt nghiệp. Chúng tôi đánh giá, các em đã thâm nhập được vào thị trường Edtech rất sâu và khẳng định được những thành quả của mình. Ngay từ năm hai đại học, các em đã được đi thực tập. Năm thứ ba, các em vừa học ở nhà trường, đồng thời vừa làm việc, thâm nhập vào thị trường lao động. Đến năm thứ tư, các em đã có những sản phẩm đóng góp cho xã hội.
Chúng tôi hy vọng lứa sinh viên này sẽ là những người đầu tiên viết nên câu chuyện công nghệ giáo dục hay "câu chuyện số" từ trong nhà trường cho giáo dục Việt Nam.
Rất cần các cơ chế hỗ trợ
- Theo ông, cơ quan quản lý cần có những chính sách nào để thúc đẩy ngành Quản trịcông nghệ giáo dục phát triển?
Tiến sĩ Tôn Quang Cường: Câu chuyện chính sách sẽ liên quan đến một hệ thống thiết chế, nguyên tắc, định hướng để giúp ngành nghề này được ghi nhận trong thị trường lao động, được chứng thực bởi sản phẩm cụ thể và sự phát triển trong một giai đoạn nào đó.
Chúng tôi rất mong cơ quan quản lý sẽ sớm ban hành những văn bản, hướng dẫn, quy định liên quan tới các tiêu chí đánh giá, kiểm định chất lượng; hay những tiêu chí hướng dẫn để hỗ trợ cho ngành Quản trị Công nghệ giáo dục phát triển. Hiện nay, cá nhân tôi được biết, trong danh mục nghề nghiệp của Việt Nam chưa ghi nhận vị trí việc làm của ngành Quản trị Công nghệ giáo dục và tôi hy vọng trong tương lai sẽ có.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng mong cơ quan quản lý thiết lập nên một hệ thống định hướng người học ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường: định hướng làm việc, định hướng phát triển liên quan đến nghiên cứu, phát triển các giải pháp công nghệ. Từ đó, giúp có các em có sự an tâm, tin tưởng, tự tin hơn.
Cuối cùng là các chính sách mang tính hỗ trợ, xã hội. Hiện ngành sư phạm đã có những chính sách hỗ trợ nhất định, nhưng những ngành cận sư phạm (cũng làm công tác giáo dục nhưng chưa làm giáo viên) cũng rất cần các cơ chế hỗ trợ trong quá trình học tập.
- Các năm vừa qua, điểm chuẩn trúng tuyển ngành Quản trịcông nghệ giáo dục của Trường Đại học Giáo dục thế nào, thưa ông? Nhà trường dành bao nhiêu chỉ tiêu cho ngành học này?
Tiến sĩ Tôn Quang Cường: Về điểm chuẩn trúng tuyển qua các năm, thí sinh có thể tham khảo trên cơ sở dữ liệu của nhà trường để biết được chính xác số điểm.
Về số chỉ tiêu tuyển sinh, mỗi năm, các ngành học tại Trường Đại học Giáo dục thường có chỉ tiêu từ 50 - 55. Ngành Quản trị công nghệ giáo dục cũng như vậy.
Ngành Quản trị công nghệ giáo dục được chúng tôi đưa vào nhóm ngành Giáo dục 3. Thí sinh khi trúng tuyển vào Trường Đại học Giáo dục, sau khi học năm đầu tiên, chúng tôi sẽ dựa vào đánh giá rèn luyện, năng lực học tập, kết quả các kỳ thi, bài kiểm tra và nguyện vọng cá nhân của các em để phân vào các nhóm ngành phù hợp, trong đó có Quản trị công nghệ giáo dục.
- Xin cảm ơn Tiến sĩ Tôn Quang Cường đã chia sẻ!