Cần đẩy mạnh nghiên cứu về sức khỏe tâm thần ở học sinh và giáo viên

PGS.TS Trần Thành Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội nhìn nhận, các vấn đề sức khỏe tâm thần đang là gánh nặng đáng kể đối với thanh thiếu niên ở Việt Nam, ảnh hưởng đến giáo dục ở nhiều chiều cạnh khác nhau.

Những con số đáng báo động

Theo các nghiên cứu, hiện có gần 54 triệu người trên thế giới mắc các rối loạn sức khỏe tâm thần như bệnh tâm thần phân liệt và rối loạn cảm xúc lưỡng cực, 154 triệu người mắc trầm cảm. Các con số gần đây nhất chỉ ra rằng có gần 1 triệu người tự tử mỗi năm.

Tại Việt Nam, theo Bệnh viện Tâm thần Trung ương 1, tỷ lệ mắc 10 chứng rối loạn tâm thần phổ biến trong năm 2014 là 14,2%, trong đó riêng rối loạn trầm cảm chiếm 2,45%. Tỷ lệ tự sát trong năm 2015 là 5,87 trên 100.000 dân.

Ở trẻ em và vị thành niên, theo báo cáo của UNICEF năm 2023, tỷ lệ thanh thiếu niên Việt Nam mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần chung là khoảng 12% đến 40%, với những khác biệt về tỷ lệ tùy theo tỉnh thành, giới.

Sự kém hiểu biết về các vấn đề sức khỏe tâm thần, sự kỳ thị của xã hội, các dịch vụ và nguồn lực hạn chế về sức khỏe tâm thần góp phần khiến cho hầu hết những trẻ này không được điều trị hoặc hỗ trợ.

girl-stressed.jpg
Theo báo cáo của UNICEF năm 2023, tỷ lệ thanh thiếu niên Việt Nam mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần chung là khoảng 12% đến 40%. Hình minh họa

sao cần tăng cường các nghiên cứu về sức khỏe tâm thần ở học sinh?

Trao đổi với phóng viên Báo Đại biểu Nhân dân, PGS.TS Trần Thành Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội nhìn nhận, các vấn đề sức khỏe tâm thần đang là gánh nặng đáng kể đối với thanh thiếu niên ở Việt Nam.

PGS.TS Trần Thành Nam phân tích, sức khỏe tâm thần và giáo dục có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Môi trường giáo dục tích cực thúc đẩy hạnh phúc và thành công trong học tập, trong khi những thách thức về sức khỏe tâm thần có thể cản trở việc học, dẫn đến kết quả học tập thấp hơn và tỷ lệ bỏ học tăng cao.

Sức khỏe tâm thần ảnh hưởng đến giáo dục ở các chiều cạnh khác nhau. Cụ thể, các vấn đề về sức khỏe tâm thần có thể làm suy yếu chức năng nhận thức như sự chú ý, trí nhớ và khả năng giải quyết vấn đề, khiến học sinh khó học tập và đạt kết quả tốt trong học tập. Học sinh đang phải vật lộn với sức khỏe tâm thần có thể gặp khó khăn khi đi học thường xuyên, tham gia lớp học và hoàn thành bài tập. Từ đó, dẫn đến điểm thấp hơn và ảnh hưởng tới thành tích học tập chung.

Các vấn đề về sức khỏe tâm thần cũng có thể khiến học sinh khó hình thành và duy trì các mối quan hệ lành mạnh với bạn bè và giáo viên. Học sinh gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần dễ bị bắt nạt và cô lập xã hội hơn, ảnh hưởng thêm đến sức khỏe tâm thần và hạnh phúc của các em. Học sinh gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần cũng có thể gặp khó khăn trong việc điều chỉnh cảm xúc của mình, điều này có thể dẫn đến các vấn đề về hành vi trong lớp học.

pgs-ts-tran-thanh-nam-gan-nhan-hoc-sinh-dot-da-la-phi-nhan-van-va-phan-giao-duc.jpg
PGS.TS Trần Thành Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội

Ở chiều ngược lại, giáo dục cũng tác động đến sức khỏe tâm thần. Môi trường học tập hỗ trợ, hòa nhập và tôn trọng có thể nâng cao lòng tự trọng, giảm lo lắng và thúc đẩy cảm giác được thuộc về, đây là những yếu tố rất quan trọng đối với sức khỏe tâm thần. Những trải nghiệm giáo dục tích cực có thể dẫn đến sự tự tin, động lực và cảm giác hoàn thành công việc cao hơn, có thể tác động tích cực đến sức khỏe tâm thần. Đồng thời, giáo dục có thể trang bị cho cá nhân kiến ​​thức và kỹ năng để vượt qua những thách thức, xây dựng khả năng phục hồi. Đây là những yếu tố quan trọng để quản lý các vấn đề sức khỏe tâm thần.

Trong khi đó, một môi trường giáo dục tiêu cực, đòi hỏi cao, bắt nạt và thiếu sự hỗ trợ có thể góp phần gây ra căng thẳng, lo âu và các vấn đề sức khỏe tâm thần khác ở học sinh. Học sinh đang phải vật lộn với các vấn đề sức khỏe tâm thần có thể gặp khó khăn trong học tập, dẫn đến cảm giác bất lực và lòng tự trọng thấp, làm trầm trọng thêm các vấn đề sức khỏe tâm thần.

Ngoài ra, học sinh gặp các vấn đề về sức khỏe tâm thần cũng có nhiều khả năng bỏ học hơn, gây ra hậu quả tiêu cực lâu dài cho sức khỏe tâm thần và hạnh phúc của các em. Kết quả học tập kém và bỏ học có thể hạn chế các cơ hội giáo dục và việc làm trong tương lai, gây ra hậu quả tiêu cực lâu dài đối với sức khỏe tâm thần và hạnh phúc. Học sinh gặp khó khăn trong học tập và bị cô lập về mặt xã hội cũng có nguy cơ mắc hoặc làm trầm trọng thêm các vấn đề về sức khỏe tâm thần.

“Chính vì tầm quan trọng của sức khỏe tâm thần trong giáo dục, việc tăng cường các nghiên cứu về sức khỏe tâm thần ở học sinh và giáo dục là hết sức cần thiết”, PGS.TS Trần Thành Nam nhấn mạnh.

Nghiên cứu sức khỏe tâm thần ở học sinh giúp đề xuất chính sách đảm bảo công bằng giáo dục

Theo PGS.TS Trần Thành Nam, nghiên cứu về sức khỏe tâm thần có vai trò quan trọng trong việc hiểu rõ tình trạng sức khỏe tâm thần, phát triển các phương pháp điều trị hiệu quả và ngăn ngừa các vấn đề, từ đó cải thiện cuộc sống của cá nhân và toàn xã hội.

Các nghiên cứu về sức khỏe tâm thần cho phép hiểu rõ nguyên nhân cơ bản và các yếu tố rủi ro đối với các vấn đề sức khỏe tâm thần. Điều này rất cần thiết để xây dựng các chiến lược phòng ngừa và can thiệp có mục tiêu. Đồng thời, giúp xác định và phát triển các phương pháp điều trị mới và cải tiến, bao gồm liệu pháp, dược lý và tâm lý xã hội, có thể giúp mọi người kiểm soát và vượt qua các thách thức về sức khỏe tâm thần.

Nghiên cứu về sức khỏe tâm thần cũng có thể dẫn đến việc phát triển các chương trình phòng ngừa hiệu quả, giúp giảm nguy cơ phát triển các vấn đề sức khỏe tâm thần ngay từ đầu. Bằng cách hiểu và giải quyết các tình trạng sức khỏe tâm thần, nghiên cứu có thể cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống cho cá nhân và gia đình họ.

Bên cạnh đó, những nghiên cứu này đóng vai trò quan trọng trong việc thách thức kỳ thị và thúc đẩy sự hiểu biết tốt hơn về các tình trạng sức khỏe tâm thần, khuyến khích mọi người tìm kiếm sự giúp đỡ và hỗ trợ. Cung cấp bằng chứng về hiệu quả của các chính sách và chương trình y tế công cộng liên quan đến sức khỏe tâm thần, đảm bảo rằng các nguồn lực được phân bổ hiệu quả và các biện pháp can thiệp dựa trên bằng chứng.

Với tình trạng gia tăng các vấn đề sức khỏe tâm thần, nghiên cứu đóng vai trò quan trọng trong việc tìm ra giải pháp giải quyết cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần và đảm bảo mọi người đều được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc mà họ cần. Giải quyết các vấn đề sức khỏe tâm thần cũng có thể mang lại những lợi ích đáng kể về mặt xã hội và kinh tế, bao gồm tăng năng suất, giảm chi phí chăm sóc sức khỏe và cải thiện sự hòa nhập xã hội.

“Đặc biệt, nghiên cứu sức khỏe tâm thần của học sinh và giáo viên rất quan trọng vì giúp hiểu được nguyên nhân gốc rễ của các vấn đề sức khỏe tâm thần, phát triển các biện pháp can thiệp hiệu quả cho nhóm học sinh có nhu cầu đặc biệt và tạo ra môi trường học đường hỗ trợ chung, cuối cùng là cải thiện thành tích học tập, hạnh phúc và kết quả chung của xã hội. Kết quả nghiên cứu sức khỏe tâm thần ở học sinh giúp đề xuất được các chính sách đảm bảo công bằng trong giáo dục”, PGS.TS Trần Thành Nam cho hay.

Tiên phong trong đào tạo, nghiên cứu lĩnh vực sức khỏe tâm thần trẻ em và vị thành niên

Chia sẻ về thực trạng đào tạo và nghiên cứu khoa học về sức khỏe tâm thần hiện nay, PGS.TS Trần Thành Nam cho biết Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) là một trong những đơn vị tiên phong tập trung vào đào tạo và nghiên cứu về lĩnh vực sức khỏe tâm thần trẻ em và vị thành niên, cụ thể là tâm lý học lâm sàng.

Từ năm 2006, với sự hỗ trợ từ dự án “Nâng cao cơ sở hạ tầng về khoa học tâm lý lâm sàng ở Đông Nam Á” hợp tác với Đại học Vanderbilt, do Viện Sức khỏe Hoa kỳ tài trợ, Trường Đại học Giáo dục đã có những cán bộ được đào tạo bài bản về Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên.

Song song, chương trình Thạc sĩ Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên đầu tiên ở Việt Nam được xây dựng và ra đời năm 2009 và chương trình Tiến sĩ Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên được xây dựng và ra đời năm 2016, với tiếp cận đào tạo chuyên sâu, thực hành kết hợp nghiên cứu.

Đến nay, tiếp cận đào tạo và phát triển về Tâm lý học lâm sàng của nhà trường đã được nhiều đơn vị khác học hỏi. Cụ thể, đã có thêm 4 chương trình thạc sĩ Tâm lý học lâm sàng được mở thêm trên cả nước. Chương trình sau đại học Tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên đã trở thành một thương hiệu của Trường Đại học Giáo dục.

Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu mạnh về Tâm lý học lâm sàng được công nhận là nhóm nghiên cứu mạnh cấp Đại học Quốc gia Hà Nội từ năm 2016 đến nay.

Các nghiên cứu về Tâm lý học lâm sàng và Sức khỏe tâm thần trẻ em và vị thành niên của Trường Đại học Giáo dục đã tạo ra những nền tảng cho phát triển lĩnh vực này ở Việt Nam. Số đề tài/dự án trong và ngoài nước về sức khỏe tâm thần của nhà trường 5 năm qua là 5 dự án, với tổng kinh phí xấp xỉ 20 tỷ đồng.

Trường Đại học Giáo dục hiện tuyển sinh các chương trình đào tạo Cử nhân ngành Tham vấn học đường (theo 3 hướng ngành Tham vấn sức khỏe tâm thần; Tham vấn và can thiệp các vấn đề học tập và hướng nghiệp; Công tác xã hội học đường) và ngành Tâm lý học (định hướng Tâm lý lâm sàng trẻ em và vị thành niên).

Bên cạnh đó, nhà trường cũng tuyển sinh các chương trình đào tạo Thạc sĩ Tham vấn học đường, Thạc sĩ Tâm lý lâm sàng trẻ em và vị thành niên và chương trình đào tạo Tiến sĩ ngành Tâm lý lâm sàng trẻ em và vị thành niên.

Giáo dục

Giáo sư Đại học Bắc Kinh chia sẻ góc nhìn kinh tế với chủ đề “Việt Nam thịnh vượng trong Kỷ nguyên mới”
Giáo dục

Giáo sư Đại học Bắc Kinh chia sẻ góc nhìn kinh tế với chủ đề “Việt Nam thịnh vượng trong Kỷ nguyên mới”

Ngày 15.4.2025, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ chức Tọa đàm khoa học với chủ đề “Việt Nam thịnh vượng trong Kỷ nguyên mới”. GS. Lâm Nghị Phu, Viện trưởng Viện Kinh tế học Cấu trúc mới, ĐH Bắc Kinh (Trung Quốc), nguyên Phó Chủ tịch Cấp cao phụ trách Kinh tế phát triển của Ngân hàng Thế giới là diễn giả khách mời của tọa đàm này.

Khung năng lực số trong trường học: Cần những nội dung, tiêu chí cụ thể
Giáo dục

Khung năng lực số trong trường học: Cần những nội dung, tiêu chí cụ thể

Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Ngọc Thưởng cho rằng, cần đưa ra những nội dung, tiêu chí cụ thể về Khung năng lực số cho từng đối tượng học sinh, khi áp dụng phải phù hợp với thực tế ở mỗi địa phương, nhà trường. Quá trình xây dựng văn bản phải thận trọng, kỹ lưỡng nhưng cũng không quá cầu toàn, nhận diện được những thách thức sẽ phải đối mặt.