Hoàn thiện cơ sở pháp lý xử lý nợ xấu, tình trạng sở hữu chéo
Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ Năm gồm 15 chương, 210 điều. Các đại biểu Quốc hội cho rằng, việc sửa đổi toàn diện Luật Các tổ chức tín dụng có ý nghĩa quan trọng nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế và những yêu cầu mới trong thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng cũng như thực tiễn quản lý của các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, đây là một đạo luật khó, có nhiều nội dung phức tạp, chuyên ngành sâu, có tác động ảnh hưởng đến rất nhiều đối tượng, cũng như đối với ổn định kinh tế vĩ mô. Do vậy, việc tiếp thu, hoàn thiện dự thảo Luật được thực hiện kỹ lưỡng, thận trọng, phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Hiến pháp năm 2013. Các điều luật được chỉnh sửa, tiếp thu, giải trình vì vậy cơ bản đáp ứng yêu cầu của đại biểu Quốc hội. Nhờ đó, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua với tỷ lệ tán thành cao, chiếm 91,28% tổng số đại biểu Quốc hội.
Các đại biểu Quốc hội đánh giá, với các nội dung được sửa đổi, bổ sung rất căn bản, toàn diện và đồng bộ, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) sẽ góp phần kịp thời thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực ngân hàng phù hợp với nguyên tắc thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự an toàn, lành mạnh, ổn định và bền vững của hệ thống.
Các quy định tại đạo luật cũng sẽ giúp tăng cường tính công khai, minh bạch, phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế phổ biến; hoàn thiện cơ sở pháp lý về xử lý nợ xấu, tình trạng sở hữu chéo, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số trong lĩnh vực ngân hàng và phát triển những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại có giá trị gia tăng cao; tăng cường năng lực tài chính, quản trị và chất lượng hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng; phân định rõ thẩm quyền, tăng cường trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước các cấp; nâng cao năng lực, chất lượng và hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động tổ chức tín dụng...
Tăng cường tối đa tính minh bạch với thông tin của cổ đông
Xử lý tình trạng sở hữu chéo, thao túng, chi phối hoạt động của tổ chức tín dụng từ một số cổ đông, nhóm cổ đông lớn, giúp hệ thống các tổ chức tín dụng hoạt động lành mạnh và bền vững là một yêu cầu được đặt ra khi sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12.
Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) không chỉ đưa ra những quy định để ngăn chặn tình trạng nêu trên, mà sửa đổi, bổ sung căn bản, toàn diện và đồng bộ Luật hiện hành để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Khẳng định điều này, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế Phạm Thị Hồng Yến cho biết, quá trình sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng được thực hiện với tinh thần cẩn trọng, kỹ lưỡng, đảm bảo yêu cầu cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng, đáp ứng nguyên tắc nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có tính kế thừa và đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và phù hợp với chuẩn mực kế toán và các thông lệ quốc tế, đặc biệt tăng tường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng. “Với quan điểm này, trong Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) được Quốc hội thông qua đã có các giải pháp, “van khóa” để khắc phục những tồn tại, hạn chế của hệ thống tín dụng trong thời gian qua”, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế nhấn mạnh.
Để kiểm soát và hạn chế tình trạng sở hữu chéo, thao túng tại tổ chức tín dụng, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế khẳng định, các quy định trong Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) đã được chỉnh lý phù hợp, qua đó mở rộng quy định người có liên quan của tổ chức tín dụng (trừ quỹ tín dụng nhân dân); giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông là tổ chức của tổ chức tín dụng; giảm giới hạn tiếp cận tín dụng và có lộ trình cụ thể để cho phép các tổ chức tín dụng có thể nâng cao năng lực theo yêu cầu của Luật. Đồng thời, bổ sung các quy định về việc phải công bố công khai thông tin của các cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên của tổ chức tín dụng, qua đó giúp tăng cường tối đa tính minh bạch của thông tin liên quan đến sở hữu của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) cũng có một số quy định khác liên quan tới tài chính, hạch toán, báo cáo trên cơ sở đưa vào các quy định tại văn bản hướng dẫn được thực tế chứng minh phù hợp và hiệu quả. Luật cũng bổ sung những nội dung rất chi tiết có tính chuyên môn, chuyên ngành và kỹ thuật về vốn, về doanh thu, chi phí, lãi phải thu, dự phòng rủi ro, về phân phối lợi nhuận… để bảo đảm sự phát triển bền vững của tổ chức tín dụng, đưa các hoạt động về tài chính, hạch toán, kế toán theo đúng chuẩn mực quốc tế, minh bạch và hiệu quả.
Đối với việc can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt, cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế cho biết, các nội dung này tại Luật được xây dựng dựa trên cơ sở nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của các tổ chức này, bảo đảm rủi ro của mỗi tổ chức tín dụng không có cơ hội và ảnh hưởng đối với sự an toàn và lành mạnh của cả hệ thống. Bổ sung quy định liên quan đến tổ chức tín dụng phải xây dựng phương án khắc phục dự kiến trong trường hợp nếu can thiệp sớm để tổ chức tín dụng được quyền chủ động xử lý kịp thời nếu xảy ra vấn đề hoặc dấu hiệu cần phải can thiệp sớm. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát ngân hàng cũng được hoàn thiện trong Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).
Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) được xây dựng và ban hành với kỳ vọng sẽ giúp việc tiếp cận tài chính, tín dụng của các doanh nghiệp, người dân thuận lợi hơn; đồng thời, bảo đảm an toàn hệ thống trong quá trình nền kinh tế chuyển sang giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với yêu cầu chất lượng cao hơn, mức độ phức tạp hơn. Nhấn mạnh đòi hỏi này, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế khẳng định, quá trình thẩm tra, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý đối với dự án Luật này được thực hiện kỹ lưỡng và cẩn trọng, nhằm đảm bảo giảm thiểu tối đa rủi ro trong nền kinh tế thị trường với biến động khó lường của nền kinh tế khu vực và thế giới, cũng như sự thay đổi về nhu cầu sản xuất, của quá trình phát triển nền kinh tế.