Đề xuất điều chỉnh một số nội dung để nâng cao hiệu quả thực thi Luật Thủy Lợi

Luật Thuỷ lợi đã được Quốc hội thông qua năm 2017 và có hiệu lực thi hành từ 1.7.2018.

Sau hơn 6 năm thi hành, Luật Thuỷ lợi đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi phục vụ phát triển kinh tế-xã hội đất nước.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn còn những vướng mắc trong các hoạt động từ đầu tư xây dựng đến quản lý khai thác, bảo vệ công trình. Những vướng mắc này đặt ra yêu cầu phải rà soát, đánh giá kết quả thi hành Luật Thuỷ lợi.

Năm 2024, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) hỗ trợ Cục Thủy lợi tiến hành khảo sát, rà soát, đánh giá việc thực thi Luật Thủy lợi từ tháng 5-8.2024.

Việc rà soát, đánh giá Luật Thuỷ lợi được tiến hành trên cơ sở: (i) rà soát đánh giá những tồn tại vướng mắc trong quá trình thực thi dựa trên kết quả tổng hợp báo cáo đánh giá của các tỉnh, thành và kết quả tham vấn tại 08 địa phương đại diện theo vùng địa lý và loại hình tổ chức quản lý khai thác (các tỉnh Bắc Giang, Nam Định, Quảng Bình, Ninh Thuận, Đắc Lắk, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An và Hậu Giang); và (ii) rà soát các quy định của các luật khác có liên quan (09 luật) đến Luật Thủy lợi.

Việc rà soát, đánh giá đã chỉ ra những bất cập, hạn chế, tồn tại và nguyên nhân, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực pháp lý và hiệu quả của công tác thủy lợi, phục vụ xây dựng sửa đổi bổ sung Luật Thủy lợi và các văn bản pháp luật có liên quan.

Những hạn chế về việc thực thi Luật Thuỷ lợi và các văn bản pháp luật có liên quan

Quá trình rà soát, đánh giá từ báo cáo tổng hợp của các địa phương và tham vấn với 08 tỉnh cho thấy, việc thực thi Luật Thuỷ lợi có một số vấn đề chính đang gặp nhiều vướng mắc cần được tháo gỡ như sau:

- (i) Đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi nhất là sửa chữa, bảo trì, vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của nhiều địa phương, nhất là công trình thuỷ lợi nhỏ, thuỷ lợi nội đồng;

- (ii) Phân cấp quản lý công trình thuỷ lợi còn hạn chế, chưa gắn với quản lý kết cấu hạ tầng thuỷ lợi, tiêu chí phân cấp vẫn chưa đề cập đến hết những đặc thù của các địa phương, loại hình tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi ở một số địa phương chưa đúng với quy định của Luật, năng lực của các tổ chức quản lý khai thác còn hạn chế, nhất là các tổ chức thuỷ lợi cơ sở. Hoạt động quản lý khai thác chưa đem lại hiệu quả cao. Nhiều doanh nghiệp chưa chủ động, mở rộng các hoạt động dịch vụ khác để khai thác tiềm năng của hệ thống;

- (iii) Chưa thực hiện được các quy định về xây dựng, ban hành và thực thi giá sản phẩm, dịch vụ thuỷ lợi trong khi đó cơ chế hỗ trợ tiền sử dụng sản phẩm dịch vụ thuỷ lợi chưa đầy đủ, thủ tục phức tạp khiến cho vấn đề này trở thành một trong những hạn chế lớn nhất, ảnh hưởng đến toàn bộ các hoạt động quản lý, vận hành và bảo vệ để phát huy hiệu quả hệ thống công trình thuỷ lợi;

- (iv) Công tác vận hành, bảo vệ công trình thuỷ lợi cũng còn nhiều vướng mắc, nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi chưa có quy trình vận hành. Việc cắm mốc hành lang bảo vệ, xử lý vi phạm trong hành lang bảo vệ công trình còn nhiều khó khăn, vẫn còn những vi phạm chưa xử lý triệt để;

- (v) Việc cấp phép hoạt động trong phạm vi bảo vệ công trình thuỷ lợi còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp kéo dài từ khâu lập hồ sơ đến công tác thẩm định, việc quản lý, giám sát chất lượng nước trong hệ thống công trình thuỷ lợi cũng là vấn đề nổi cộm ở nhiều địa phương.

Một số nội dung còn chưa thống nhất của Luật Thuỷ lợi với các Luật hiện hành khác

Kết quả rà soát với hệ thống văn bản luật hiện hành có 5 nhóm vấn đề chính có liên quan đến 09 luật (Tài Nguyên nước, Đất đai, Bảo vệ môi trường, Luật Giá, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Điện lực, Luật Khoáng sản và Luật Ngân sách, Luật Hợp tác xã).

Năm nhóm vấn đề của Luật Thủy lợi có nội dung liên quan đến các luật khác, sắp xếp theo thứ tự mức độ ảnh hưởng đến hiệu quả, hiệu lực thực thi Luật Thuỷ lợi bao gồm: (i) Giá sản phẩm dịch vụ thuỷ lợi; (ii) Quản lý, khai thác, vận hành công trình thuỷ lợi gồm cả kết cấu hạ tầng; (iii) Bảo vệ, đảm bảo an toàn công trình thuỷ lợi; (iv) Chất lượng nước; và (vi) Quy hoạch, đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi. Về cơ bản các nhóm vấn đề chính này cũng tương đối phù hợp với các tồn tại rút ra từ quá trình rà soát, tham vấn, đánh giá và tổng kết việc thi hành Luật Thuỷ lợi của các địa phương trên toàn quốc.

Đề xuất điều chỉnh một số nội dung và các quy định có liên quan

Căn cứ vào kết quả rà soát việc thực thi Luật Thuỷ lợi, một số đề xuất lớn để sửa đổi, nâng cao hiệu quả, hiệu lực thực thi Luật theo thứ tự ưu tiên bao gồm bao gồm:

(i) Sớm sửa đổi các quy định về giá sản phẩm, dịch thuỷ lợi và cơ chế miễn, giảm tiền sử dụng sản phẩm dịch vụ thuỷ lợi theo quy định cụ thể tại Nghị định 96/2018. Cụ thể là sửa đổi nguyên tắc, phương pháp định giá sản phẩm, dịch vụ công ích đảm bảo tính đúng, đủ các khoản chi phí. Điều chỉnh, cải thiện cơ chế cấp đủ kinh phí hỗ trợ tiền sử dụng sản phẩm dịch vụ công ích thuỷ lợi.

(ii) Sửa đổi các quy định để tăng cường phân cấp quản lý, thực hiện sắp xếp, kiện toàn tổ chức quản lý khai thác để nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi: Thực hiện phân cấp quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, phát huy nội lực và vai trò của các bên liên quan, nhất là tổ chức thuỷ lợi cơ sở và người dân trong công tác thuỷ lợi, gắn phân cấp quản lý với quản lý, khai thác kết cấu hạ tầng thuỷ lợi. Kiện toàn, củng cố các tổ chức thuỷ lợi bao gồm cả doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp và tổ chức thuỷ lợi cơ sở. Nâng cao chất lượng dịch vụ thuỷ lợi, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả trong hệ thống thuỷ lợi.

(iii) Tăng cường công tác vận hành, bảo vệ và đảm bảo vận hành an toàn công trình: Thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn công trình, tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm trong hành lang bảo vệ công trình thuỷ lợi. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong việc thực thi pháp luật về thủy lợi tại địa phương. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định của Chính phủ về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước giúp các địa phương thực hiện hiệu quả bảo đảm an toàn CTTL và an ninh nguồn nước.

(iv) Tăng cường đầu tư phát triển hạ tầng thuỷ lợi có trọng tâm, theo hướng đồng bộ, hiện đại, để đảm bảo đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Bố trí đủ kinh phí từ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, đồng thời thu hút các nguồn lực của xã hội để xây dựng công trình thuỷ lợi.

(v) Tăng cường đôn đốc việc thực thi các quy định của Luật Thuỷ lợi để triển khai đồng bộ, hiệu quả việc thực hiện các quy định của Luật Thuỷ lợi nhất là các nội dung liên quan đến công tác quản lý, vận hành, khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.

Lập pháp

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên họp
Quốc hội và Cử tri

Tháo gỡ vướng mắc, tạo sự thông thoáng, năng động cho doanh nghiệp

Cho ý kiến với dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp tại Phiên họp thứ 44, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị, cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện dự thảo Luật, bảo đảm các quy định sẽ giải quyết, tháo gỡ được các khó khăn, vướng mắc hiện nay; bao quát những vấn đề mới, bảo đảm yêu cầu phát triển kinh tế tư nhân trong mối quan hệ với đầu tư vốn của nhà nước và các yêu cầu trong tình hình mới.

Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Quốc hội và Cử tri

Tạo cơ sở pháp lý toàn diện phát triển bền vững ứng dụng năng lượng nguyên tử

Cho ý kiến về dự án Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi), các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị tiếp tục rà soát, đối chiếu các quy định của dự thảo Luật với các luật có liên quan để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất; đồng thời, rà soát, tham chiếu, bảo đảm tương thích với điều ước quốc tế về năng lượng nguyên tử mà Việt Nam là thành viên, nhằm xây dựng cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện cho phát triển bền vững ứng dụng năng lượng nguyên tử.

Ảnh minh họa
Xây dựng luật

Nên luật hóa nghĩa vụ chuyển giao công nghệ với hợp đồng điện hạt nhân

PGS.TS. Vương Hữu Tấn - Nguyên Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam

Dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) nên bổ sung một điều quy định về phát triển điện hạt nhân, trong đó tuyên bố chính sách dài hạn, bền vững của quốc gia về phát triển điện hạt nhân với mục tiêu phải chiếm một tỷ lệ hợp lý trong cán cân cung cấp điện năng và chúng ta có khả năng làm chủ, phát triển công nghệ để vận hành an toàn, khai thác hiệu quả. Đồng thời, luật hóa nghĩa vụ chuyển giao công nghệ đối với hợp đồng điện hạt nhân.

Tổng Biên tập Báo Nhân dân Lê Quốc Minh
Lập pháp

Sửa đổi Luật Chứng khoán, tạo điều kiện cho start-up công nghệ huy động vốn

Nhấn mạnh Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã đặt ra yêu cầu đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, khuyến khích đổi mới sáng tạo, loại bỏ tư duy “không quản được thì cấm”, Viện trưởng Viện IDS Trần Văn đề nghị cần sớm xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán, nghiên cứu dành riêng một chương về điều kiện cho các start-up công nghệ có thể huy động vốn trên thị trường.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi chủ trì phiên họp phát biểu
Diễn đàn Quốc hội

Cần chính sách đủ mạnh để khuyến khích phục hồi doanh nghiệp

Dự án Luật Phá sản (sửa đổi) dự kiến sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ Chín tới, trong đó có một điểm mới nổi bật là bổ sung quy định về phục hồi doanh nghiệp trước khi phá sản. Tại phiên họp mở rộng của Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính thẩm tra dự án Luật này, các đại biểu đề nghị, cần rà soát, nghiên cứu để có khung pháp lý, chính sách đủ mạnh nhằm khuyến khích thực hiện phục hồi doanh nghiệp.

Xem xét tăng thời hạn của giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất hóa chất
Quốc hội và Cử tri

Xem xét tăng thời hạn của giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất hóa chất

Quan tâm đến thời hạn của giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất hóa chất quy định tại dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi), các đại biểu Quốc hội tham dự Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 7 đề nghị tăng thời hạn của giấy chứng nhận là trên 5 năm. Bởi, thời hạn trên là quá ngắn, gây khó khăn cho các tổ chức, cá nhân sản xuất hóa chất có điều kiện.

ĐBQH Nguyễn Trường Giang (Đắk Nông)
Quốc hội và Cử tri

Cân nhắc tăng thuế đối với xe ô tô pick - up chở hàng cabin kép theo lộ trình

Lưu ý nếu quy định tăng thuế cao đối với xe ô tô pick - up chở hàng cabin kép ngay trong một lần như dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) sẽ gây tác động tới tâm lý khách hàng, làm giảm lượng tiêu thụ xe, một số đại biểu Quốc hội đề nghị cân nhắc quy định lộ trình tăng thuế trong vòng 3 năm, từ năm 2027 - 2030, mức tăng thêm 3%/năm tương đương với việc chia đều mức tăng 9% trong 3 năm, áp dụng từ năm 2027.

Thường trực Ủy ban Kinh tế họp mở rộng thẩm tra dự án Luật Phá sản (sửa đổi)
Chính trị

Gỡ điểm nghẽn trong thực hiện phá sản

Sáng 27.3, tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi, Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính họp mở rộng thẩm tra dự án Luật Phá sản (sửa đổi).

Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương điều hành phiên thảo luận
Quốc hội và Cử tri

Tăng cường quyền kiểm soát của người dân đối với dữ liệu cá nhân

Trong kỷ nguyên số, dữ liệu cá nhân được coi là tài sản phi truyền thống và có liên quan chặt chẽ tới quyền con người, quyền công dân, an toàn, an ninh mạng, an ninh thông tin, an ninh dữ liệu, công nghệ thông tin… Thảo luận về dự án Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, các đại biểu Quốc hội đề nghị, dự thảo Luật cần tăng cường quyền kiểm soát của người dân đối với dữ liệu cá nhân và quy định chế tài có tính răn đe cao đối với những hành vi xâm phạm.

ĐBQH Nguyễn Trường Giang (Đăk-Nông) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Quốc hội và Cử tri

Nghiên cứu kỹ lưỡng chính sách thuế liên quan đến phát triển khoa học, công nghệ

Cho ý kiến về dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi), các đại biểu Quốc hội cho rằng, việc ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp là rất quan trọng và ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư cũng như sự phát triển của doanh nghiệp, vì vậy, cần rà soát bảo đảm thể chế hóa đầy đủ và toàn diện các nội dung liên quan đến chính sách ưu đãi về thuế, trong đó có lĩnh vực khoa học, công nghệ.

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan điều hành thảo luận về dự án Luật Công nghiệp công nghệ số
Quốc hội và Cử tri

Đổi mới tư duy, tránh quản lý quá thận trọng

Thảo luận về dự án Luật Công nghiệp công nghệ số, tại Hội nghị đại biểu Quốc hội (ĐBQH) hoạt động chuyên trách lần thứ 7, một số ĐBQH cho rằng, dự thảo Luật cần cụ thể hóa đầy đủ Nghị quyết số 57 – NQ/TW của Bộ Chính trị, nhất là yêu cầu đổi mới tư duy quản lý, tránh tư duy "không quản được thì cấm", mở đường cho công nghệ mới qua cơ chế thử nghiệm có kiểm soát. Bởi, nếu quản lý quá thận trọng sẽ kìm hãm đổi mới sáng tạo, khiến doanh nghiệp e ngại thử nghiệm công nghệ mới tại nước ta.

Đại biểu Quốc hội Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Chính trị

Cần có chế tài xử lý khi doanh nghiệp không báo cáo hàng năm

Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) quy định, trong thời hạn 5 năm kể từ ngày hóa chất mới được đăng ký, hằng năm, tổ chức, cá nhân có hoạt động hóa chất liên quan đến hóa chất mới phải báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quá trình hoạt động với hóa chất mới. Do đó, đại biểu Quốc hội Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) đề nghị, cần bổ sung vào dự thảo Luật quy định về việc giao Chính phủ quy định chế tài xử lý với trường hợp không báo cáo hàng năm.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh phát biểu
Chính trị

Đánh giá kỹ lưỡng câu chuyện dạy thêm, học thêm

Tại Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 7, các ý kiến đề nghị tiếp tục nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng câu chuyện dạy thêm, học thêm, đặc biệt là triển khai Thông tư số 29/2024/TT-BGDĐT quy định về dạy thêm, học thêm để quy định nội dung này trong dự thảo Luật Nhà giáo.

ĐBQH Trần Văn Khải (Hà Nam) phát biểu
Chính trị

Biến chính sách việc làm thành lợi thế cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số

Thảo luận về dự án Luật Việc làm (sửa đổi) chiều nay, 25.3, các đại biểu Quốc hội cho rằng, việc sửa đổi Luật Việc làm lần này là cơ hội vàng để thể chế hoá các định hướng chiến lược của Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, biến chính sách việc làm thành lợi thế cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu
Lập pháp

Cần cơ chế, chính sách vượt trội khuyến khích đầu tư phát triển đường sắt

Cho ý kiến với dự án Luật Đường sắt (sửa đổi) tại Phiên họp thứ 43 vừa qua, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị, các chính sách về phát triển, ưu đãi, hỗ trợ trong hoạt động đường sắt phải thể chế hóa tối đa nội dung Kết luận số 49-KL/TW của Bộ Chính trị, nhất là về phân bổ ngân sách, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, hỗ trợ địa phương phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn yêu cầu sửa đổi Luật Đường sắt phải tập trung vào các chính sách đột phá mạnh mẽ, phát triển bứt phá
Chính trị

Phát triển đường sắt với tư duy vượt trội, tầm nhìn dài hạn

“Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, chúng ta mới có đoàn tàu Thống Nhất, bây giờ chuẩn bị kỷ niệm 50 năm rồi đoàn tàu Thống Nhất vẫn không có gì thay đổi về vận tốc, vận tải, có chăng chỉ là thay đổi kết cấu phòng ốc, điều kiện phương tiện, còn vận tốc vẫn y như cách đây 50 năm”.