Có chương, mục riêng về phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang
Theo đại biểu Trần Đức Thuận, Luật đã cụ thể hóa quan điểm của Đảng về nhà ở, khắc phục được hạn chế bất cập trong quá trình thực hiện Luật Nhà ở năm 2014. Đặc biệt, Luật đã bổ sung nhiều quy định mới, mở rộng đối tượng thuộc diện được hưởng ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước về Nhà ở, quan tâm đến đối tượng yếu thế, đối tượng có công, đối tượng lao động đặc biệt, đặc thù…
Góp ý vào những Điều khoản cụ thể của dự thảo Luật, Thiếu tướng Trần Đức Thuận cho rằng, quy định:“Nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân là nhà ở xã hội để bán, cho thuê mua, cho thuê cho đối tượng thuộc lực lượng vũ trang nhân dân theo quy định của Luật này” (khoản 9, Điều 2) chưa phản ánh đúng thực chất Nhà ở của lực lượng vũ trang. Bởi, nhà ở hiện nay của lực lượng vũ trang gồm: Nhà ở tập trung trong doanh trại, nhà công vụ và nhà ở xã hội… Do đó, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh quy định này theo hướng thể hiện được 3 loại nhà này của lực lượng vũ trang.
Cũng theo đại biểu Trần Đức Thuận, tại Mục 4, Chương 6 (từ Điều 101 đến Điều 109), dự thảo luật dành riêng nội dung quy định về phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang nhưng nội hàm chỉ quy định các vấn đề có liên quan đến nhà ở chính sách xã hội dành cho lực lượng vũ trang, còn các quy định về Nhà công vụ có liên quan đến lực lượng vũ trang không quy định trong Mục này mà quy định rải rác từ Điều 40 đến Điều 46… “Quy định như vậy về kỹ thuật lập pháp là không phù hợp, gây khó khăn cho việc tra cứu, không phản ánh đúng tên của Mục 4: “Phát triển nhà ở cho lực lượng vũ trang”. Do đó, cần nghiên cứu thiết kế một Chương, hoặc Mục riêng để quy định về phát triển Nhà ở cho lực lượng vũ trang, trong đó gồm: Nhà ở tập trung trong doanh trại, Nhà công vụ và Nhà ở xã hội”, đại biểu nhấn mạnh.
Cũng đề cập đến nội dung này, đại biểu Trần Đức Thuận đánh giá: Thời gian qua, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đã triển khai, thực hiện cơ bản tốt về Nhà ở tập trung trong doanh trại của lực lượng vũ trang. Qua đó, bảo đảm điều kiện ngày càng tốt hơn cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang học tập, công tác, sinh hoạt và trực sẵn sàng chiến đấu… Tuy nhiên, để có cơ sở pháp lý cao, tiếp tục thực hiện thống nhất, đạt hiệu quả trong đầu tư xây dựng, quản lý, bảo vệ và sử dụng thì cần phải bổ sung loại Nhà ở này vào Luật. Đồng thời, Luật hóa những vấn đề có tính nguyên tắc đã được kiểm nghiệm thực tế; còn các nội dung cụ thể nên giao cho Chính phủ quy định chi tiết.
Không hạn chế địa bàn được thuê nhà công vụ
Liên quan đến quy định tại Điều 40: “Đất để xây dựng Nhà ở công vụ cho đối tượng thuộc lực lượng vũ trang nhân dân theo quy định của Luật này thì Bộ Quốc phòng, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và UBND cấp tỉnh nơi có nhu cầu xây dựng Nhà ở công vụ xác định diện tích đất để xây dựng Nhà ở công vụ cho lực lượng vũ trang”… ĐBQH Trần Đức Thuận cho rằng: Đây là quy định mới, tiến bộ, thể hiện sự quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước đối với nhà công vụ cho lực lượng vũ trang, nhưng chưa phù hợp với tình hình thực tế hiện nay… “Thời gian qua, nhà công vụ trong lực lượng vũ trang hầu hết xây dựng trên đất quốc phòng - an ninh; một số đơn vị hiện vẫn đang còn quỹ đất quốc phòng - an ninh đủ điều kiện để xây dựng Nhà công vụ… Trong khi đó, việc xây dựng trên đất quốc phòng - an ninh vừa khai thác hết quỹ đất, không để lãng phí; vừa thuận lợi trong quản lý, bảo vệ và tạo thuận lợi đi lại cho các đối tượng được thuê Nhà công vụ”, đại biểu phân tích.
Trên cơ sở đó, đại biểu Trần Đức Thuận đề nghị bổ sung vào Khoản 3, Điều 40 như sau: “Đối với Nhà ở công vụ cho các đối tượng thuộc lực lượng vũ trang nhân dân theo quy định của Luật này nếu đơn vị còn quỹ đất quốc phòng, an ninh thì Bộ Quốc phòng, Bộ Công an xây dựng Đề án triển khai xây dựng Nhà ở công vụ theo thẩm quyền. Trường hợp không còn quỹ đất quốc phòng - an ninh thì Bộ Quốc phòng, Bộ Công an chủ trì phối hợp với với Bộ Xây dựng và UBND cấp tỉnh nơi có nhu cầu xây dựng Nhà ở công vụ xác định diện tích đất để xây dựng Nhà ở công vụ cho lực lượng vũ trang”.
Về quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 45: “Công chức, công nhân và viên chức Quốc phòng, người làm công tác cơ yếu và công tác khác trong tổ chức cơ yếu hưởng lương từ ngân sách Nhà nước thuộc lực lượng vũ trang nhân dân chỉ được thuê Nhà công vụ khi được điều động, luân chuyển, biệt phái đến công tác tại xã vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, khu vực biên giới, hải đảo”… đại biểu Trần Đức Thuận cho rằng, quy định này không phù hợp với Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức Quốc phòng năm 2015. Bởi, Luật này quy định Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức Quốc phòng được thuê Nhà công vụ mà không hạn chế địa bàn, địa điểm… “Do đó, để phù hợp với các đối tượng khác thuộc lực lượng vũ trang, tương thích với Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức Quốc phòng năm 2015, đề nghị không hạn chế địa bàn cho các đối tượng này được thuê nhà công vụ”, đại biểu nhấn mạnh.
Dẫn quy định tại Khoản 7 Điều 76: “Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan; công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, người làm công tác cơ yếu thuộc Quân đội nhân dân, thuộc Công an nhân dân hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, đang phục vụ tại ngũ là đối tượng được hưởng chính sách Nhà hỗ trợ về Nhà ở xã hội, trừ trường hợp được bố trí thuê Nhà ở công vụ theo quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 45 của Luật này”… Đại biểu Trần Đức Thuận cho rằng: Quy định như vậy không phù hợp, bởi nhà ở công vụ và nhà ở xã hội là hai loại nhà khác nhau.
Cụ thể, nhà công vụ chỉ để cho thuê, còn nhà ở xã hội có thể mua, có thể thuê mua, hoặc thuê. Chẳng hạn, trường hợp một người đang thuê nhà công vụ vẫn có thể được mua nhà ở xã hội ở địa phương đó, sau khi mua xong nhà ở xã hội trả lại nhà công vụ; hoặc trường hợp đang thuê nhà công vụ ở địa phương này nhưng vẫn có thể mua nhà ở xã hội ở địa phương khác. Nhà ở xã hội chỉ có thể mua một lần nhưng có thể thuê nhiều lần ở nhiều thời điểm, địa phương khác nhau, một thời điểm chỉ được thuê một nhà.
Mặt khác, theo đại biểu Trần Đức Thuận, tại điểm 3, Khoản 2, Điều 45 đã quy định: Nếu trong cùng một địa phương thì đối tượng đã mua, thuê mua, thuê nhà ở xã hội thì không được thuê nhà công vụ... Do đó, nên bỏ quy định: “…trừ trường hợp được bố trí thuê nhà ở công vụ theo quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 45 của Luật này”.
Cùng với đó, trên cơ sở đồng tình với những ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã giải trình, đại biểu Trần Đức Thuận cũng bày tỏ nhất trí với phương án 1 được quy định tại Khoản 4, Điều 80 về hình thức phát triển nhà ở xã hội: “Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam là cơ quan chủ quản dự án đầu tư xây dựng Nhà ở xã hội chỉ bằng nguồn vốn tài chính Công đoàn cho công nhân, người lao động thuộc đối tượng được hưởng chính sách Nhà ở xã hội thuê”.