Sửa đổi Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

Bài 2: Để không đi vào lối mòn xuất khẩu lao động phổ thông

Đã là xuất khẩu thì bao giờ cũng có bên xuất, bên nhập. Đối với bên xuất thì sự phụ thuộc rất quan trọng là nhu cầu (yêu cầu) của bên nhập. Bởi vậy, cả hai bên phải đàm phán để thỏa thuận thống nhất các vấn đề đặt ra, trong đó có chất lượng lao động giao và nhận.

Các yếu tố chi phối chất lượng lao động

Chất lượng lao động xuất khẩu phụ thuộc vào từng loại hợp đồng của chủ thể xuất khẩu đã cam kết với các đối tác. Theo Điều 5 của dự thảo Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi), trình Quốc hội Khóa XIV tại Kỳ họp thứ Chín, có tới 6 chủ thể xuất khẩu lao động. Đó là, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ, ngành; đơn vị sự nghiệp công lập thuộc địa phương (tỉnh, thành phố); doanh nghiệp Việt Nam đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu công trình, dự án ở nước ngoài; doanh nghiệp Việt Nam đưa người lao động đi thực tập nâng cao trình độ kỹ năng nghề ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài; cá nhân người lao động trực tiếp giao kết hợp đồng lao động.

Mỗi chủ thể xuất khẩu lao động có yêu cầu chất lượng lao động khác nhau. Trong đó, doanh nghiệp và đơn vị sự nghiệp có số lao động xuất khẩu lớn nhất. Chất lượng lao động xuất khẩu được đặt ra nghiêm ngặt đối với các đơn vị, doanh nghiệp này. Còn doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu, họ tự biết phải đưa đi bao nhiêu lao động, cơ cấu cấp bậc các loại thợ, trình độ, năng lực như thế nào để bảo đảm hoàn thành công trình đúng thời hạn với chất lượng tốt nhất theo thỏa thuận với nước đã ký hợp đồng.

Tổ chức, cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, họ có thể sử dụng lao động ở nước sở tại, hoặc đưa lao động trong nước sang, họ đều phải chủ động tính toán số lượng, cơ cấu, chất lượng lao động để việc đầu tư của họ có hiệu quả tối ưu. Cá nhân người lao động tự mình giao kết hợp đồng lao động với người sử dụng ở nước ngoài thì trình độ, năng lực của họ đã có, ai đồng ý tiếp nhận thì họ ký và thực hiện. Doanh nghiệp đưa lao động đi thực tập ở ngoài nước thì theo kế hoạch và chương trình đã thỏa thuận.

Bởi vậy, trọng tâm chất lượng lao động xuất khẩu của dự thảo Luật lần này chủ yếu áp dụng và “đặt nặng” cho các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp dịch vụ xuất khẩu lao động (trực tiếp đưa lao động của nước mình đi làm việc ở nước ngoài).

Nội hàm của chất lượng lao động

Chất lượng lao động xuất khẩu được thể hiện tại Điểm b, Khoản 2, Điều 21, về Hợp đồng cung ứng lao động, của dự thảo Luật. Nhưng theo tôi, đi đôi với quy định số lượng lao động; ngành, nghề, công việc phải làm; độ tuổi, thì phải quy định cả yêu cầu trình độ tay nghề và trình độ ngoại ngữ. Vì, doanh nghiệp nước ngoài tiếp nhận lao động, bao giờ họ cũng mong muốn tiếp nhận lao động có tay nghề, lao động đã được đào tạo, biết tiếng nước họ hoặc tiếng Anh.

Mặt khác, có quy định này thì các doanh nghiệp xuất khẩu lao động mới chủ động xuất khẩu lao động có tay nghề thay vì theo “lối mòn” chỉ xuất khẩu lao động phổ thông, không nghề để giảm chi phí đào tạo, chi phí chuẩn bị đội ngũ lao động. Và quy định có tay nghề, có ngoại ngữ mới đồng bộ với Điều 19, dự thảo Luật, về chuẩn bị nguồn lao động và Điều 45, về điều kiện người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Chất lượng lao động xuất khẩu gồm 2 nhóm yếu tố là kỹ năng “cứng” và kỹ năng “mềm”. Kỹ năng “cứng” gồm trình độ tay nghề (cấp bậc nghề), kỹ năng nghề (mức độ khéo léo, thành thục của thao tác...), trình độ ngoại ngữ (biết tiếng nước đến làm việc hoặc tiếng Anh). Kỹ năng “mềm” gồm chấp hành nội quy, kỷ luật lao động, pháp luật Nhà nước, khả năng giao tiếp (giao tiếp với đồng nghiệp, với quản lý, lãnh đạo), tính thuyết phục của lời nói, của những phát ngôn, cách ứng xử tình huống, sự việc... Kỹ năng “mềm” không chỉ cần thiết ở nơi làm việc mà còn rất thiết thực ở nơi cư trú, sinh hoạt giao tiếp xã hội.

Người lao động tham gia kỳ thi tiếng Hàn để sang Hàn Quốc làm việc Nguồn: ITN
Người lao động tham gia kỳ thi tiếng Hàn để sang Hàn Quốc làm việc 

Nguồn: ITN 

Đào tạo lao động xuất khẩu có chất lượng

Chủ trương là phải chú trọng xuất khẩu lao động có tay nghề, nhưng cũng cần phải đề cập đến một thực tế là, khó có thể rút lao động có tay nghề ở các doanh nghiệp đang hoạt động trong nước để đưa đi xuất khẩu, trừ những trường hợp thất nghiệp dài hạn hoặc thất nghiệp hoàn toàn do phá sản doanh nghiệp mà lao động ở đó còn trong độ tuổi có thể ra nước ngoài làm việc.

Ngay cả thời kỳ hợp tác quốc tế về lao động với các nước XHCN (1980 - 1990) cũng hiếm có trường hợp “rút tỉa” lao động kỹ thuật của các nhà máy, xí nghiệp để đi làm việc ở nước ngoài (cho dù các nhà máy, xí nghiệp đều là quốc doanh - của Nhà nước, hoàn toàn kế hoạch hóa được nhân lực), vì sự ràng buộc nhân sự trong tổ chức sản xuất, móc xích của dây chuyền phân công và hiệp tác trong tổ chức lao động. Do đó, dự thảo Luật quy định việc chuẩn bị đội ngũ lao động xuất khẩu đủ số lượng và bảo đảm chất lượng là một yêu cầu rất thực tế.

Việc đào tạo đội ngũ lao động có tay nghề, có ngoại ngữ để xuất khẩu có thể đặt ra hai khả năng. Một là, các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động có trường, lớp đào tạo riêng. Hai là, các đơn vị, các doanh nghiệp liên kết với các trường, các cơ sở dạy nghề của hệ thống giáo dục nghề nghiệp để đào tạo.

Dự thảo Luật dành Chương IV gồm 4 điều (từ Điều 64 đến Điều 67) để quy định vấn đề này, trong đó chú trọng hơn phương án liên kết đào tạo. Đây là hướng đi đúng đắn, vì các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp theo quy định tại Khoản 1, Điều 10 của dự thảo Luật: “Có vốn sở hữu không thấp hơn 5 tỷ đồng...” thì dù có số vốn sở hữu gấp 10 hay 100 lần như thế vẫn khó có thể thành lập được một cơ sở đào tạo riêng với đầy đủ trang thiết bị, máy móc hiện đại, nhà xưởng quy mô lớn, giáo viên giỏi để đào tạo, do vậy, liên kết đào tạo sẽ hiệu quả hơn. Hiện tại hệ thống giáo dục nghề nghiệp có 1.917 cơ sở giáo dục, trong đó có 400 trường cao đẳng, nếu tổ chức liên kết tốt sẽ dư sức đào tạo nghề cho lao động xuất khẩu.

Song, có một chi tiết cần lưu ý, tại Điều 66 của dự thảo Luật quy định, “Nhà nước có chính sách đầu tư cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đủ điều kiện về trang bị, thiết bị, chương trình, giáo trình và đội ngũ giáo viên...”. Nhưng theo Khoản 2, Điều 5 Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 thì có 3 loại hình cơ sở giáo dục nghề nghiệp: Công lập, Tư thục và cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy, Nhà nước trước mắt và trước hết chỉ có thể hỗ trợ đầu tư cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập về trang bị, thiết bị, cơ sở vật chất. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục và có vốn đầu tư nước ngoài, họ phải tự đầu tư. Bởi vậy, cần chỉnh sửa lại dự thảo Điều 66 cho thống nhất với Khoản 3, Điều 19, “Doanh nghiệp trực tiếp hợp tác, liên kết với các cơ sở đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, tổ chức dịch vụ việc làm để bổ túc tay nghề, ngoại ngữ cho người lao động...”.

Theo dõi một số hợp đồng cung ứng lao động cho thấy, tay nghề và kỹ năng nghề luôn luôn được cụ thể hóa trong hợp đồng giữa bên cung ứng và tiếp nhận, nhưng yêu cầu ngoại ngữ thì không ít hợp đồng thường bỏ qua. Vì vậy, nên chăng dự thảo Luật cần quy định rõ trình độ ngoại ngữ đối với người lao động, đó là phải “giao tiếp được bình thường trong khi làm việc và trong sinh hoạt”. Cũng phải nói thêm rằng, giao tiếp trong lao động là vô cùng quan trọng vì đã có những trường hợp tai nạn lao động do hiểu sai chỉ lệnh (yêu cầu tắt máy thì lại chạy máy, yêu cầu ngắt điện thì lại đóng điện...).

_________

* Nay là Cục Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội    

Xây dựng luật

toàn cảnh phiên họp
Xây dựng luật

Hỗ trợ tốt nhất cho người dân tại các khu vực khai thác khoáng sản

Thảo luận về dự thảo Luật Địa chất và khoáng sản, các đại biểu Quốc hội thống nhất, cần tạo căn cứ pháp lý để bắt buộc tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản thực hiện trách nhiệm hỗ trợ kinh phí đầu tư nâng cấp, duy tu, xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình bảo vệ môi trường trên địa bàn. Quy định này nhằm hỗ trợ tốt nhất cho người dân tại các khu vực khai thác khoáng sản.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành phiên họp. Ảnh : Lâm Hiển
Quốc hội và Cử tri

Bảo đảm luật này "mở ra" nhưng không "khép lại" ở luật khác

Cho ý kiến về việc tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược, một số ý kiến tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành với quy định cụ thể tại dự thảo Luật về quy mô dự án đầu tư mới trong phát triển công nghiệp dược được áp dụng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt; đồng thời, đề nghị, Chính phủ xử lý vấn đề này tại dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) để bảo đảm luật này mở ra nhưng không khép lại ở luật khác.

Toàn cảnh phiên thảo luận tại Tổ 6
Thời sự Quốc hội

Nâng hạn tuổi cao nhất của sĩ quan phục vụ tại ngũ là cần thiết

Chiều 28.10, thảo luận về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, các ĐBQH Tổ 6 (gồm Đoàn ĐBQH các tỉnh Hà Giang, Bình Định, Sóc Trăng, Bạc Liêu) đều thống nhất với tờ trình của Chính phủ và thẩm tra báo cáo về dự án luật. Song, các đại biểu đề nghị xem xét điều chỉnh tuổi nghỉ hưu của sĩ quan nữ cấp bậc quân hàm Đại tá để phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội…

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành phiên họp
Xây dựng luật

Bảo đảm việc tham gia bảo hiểm trách nhiệm được thực hiện nghiêm túc, công bằng

Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) lần này đã bổ sung quy định bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Theo các đại biểu Quốc hội, cần rà soát, đánh giá kỹ về tính hiệu quả xã hội khi quy định đây là loại bảo hiểm bắt buộc; đồng thời, quy định rõ trách nhiệm của công chứng viên hoặc tổ chức hành nghề công chứng trong trường hợp số tiền bồi thường từ bảo hiểm không đủ chi trả cho thiệt hại của khách hàng.

quang cảnh phiên họp
Xây dựng luật

Bảo đảm minh bạch, đồng thuận trong quá trình triển khai quy hoạch

Dự thảo Luật quy định thời gian lấy ý kiến cộng đồng dân cư có liên quan về quy hoạch trong vòng 30 ngày, nhưng chưa quy định về việc tiếp thu, phản hồi ý kiến như thế nào, vì vậy có ý kiến đề nghị, ban soạn thảo quy định rõ cơ chế tiếp nhận, xử lý phản hồi lại cho cộng đồng dân cư. Đồng thời, bổ sung quy định về việc tổ chức các cuộc đối thoại công khai giữa các cơ quan chức năng và người dân trong trường hợp có tranh chấp hoặc bất đồng ý kiến về quy hoạch, để bảo đảm minh bạch và đồng thuận, thuận lợi hơn trong quá trình triển khai quy hoạch.

Bổ sung thêm nhóm đối tượng vùng an toàn khu được ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế
Thời sự Quốc hội

Bổ sung thêm nhóm đối tượng vùng an toàn khu được ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế

Chiều 24.10, thảo luận tại Tổ 9 (Đoàn ĐBQH các tỉnh: Phú Yên, Hòa Bình, Quảng Ninh, Bến Tre) về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, một số đại biểu đề nghị, cần bổ sung quy định người dân sinh sống tại các xã an toàn khu cách mạng và các xã trọng điểm về quốc phòng được ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế. Cùng với đó, cần đánh giá cụ thể về khả năng đáp ứng và cân đối của quỹ bảo hiểm y tế.

Phó Trưởng Đoàn chuyên trách phụ trách Đoàn ĐBQH tỉnh Hòa Bình Đặng Bích Ngọc
Xây dựng luật

Rõ trách nhiệm để xử lý các rủi ro, rào cản

Đóng góp ý kiến tâm huyết tại Hội nghị khảo sát, lấy ý kiến góp ý đối với dự thảo Luật Điện lực (sửa đổi) của Đoàn ĐBQH tỉnh Hòa Bình mới đây, liên quan đến các quy định về đấu thầu, có đại biểu cho rằng, việc rõ ràng trong các quy định pháp lý về đấu thầu, đấu giá hay cụ thể trách nhiệm của chủ đầu tư khi tham gia vào các dự án điện vô cùng quan trọng. Vì vậy, cần làm rõ được trách nhiệm để xử lý các rủi ro, những rào cản, đặc biệt là rào cản liên quan đến hành lang pháp lý.

Việc bổ sung quy định trong Luật Điện lực bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng giữa các đơn vị điện lực
Xây dựng luật

Yêu cầu xuất phát từ thực tiễn

Sau gần 20 năm triển khai thi hành, Luật Điện lực hiện hành cần thiết phải sửa đổi, bổ sung, nhằm đáp ứng mục tiêu triển khai các chính sách của Đảng đối với lĩnh vực năng lượng nói chung, điện lực nói riêng, đáp ứng mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.

Trọng tâm sửa đổi Luật Điện lực là điều chỉnh giá điện theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước
Xây dựng luật

Bảo đảm những mục tiêu quan trọng

Dự án Luật Điện lực (sửa đổi) được xây dựng với mục đích hoàn thiện quy định pháp luật về điện lực, phù hợp với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, luật hóa định hướng chủ trương, chính sách về đổi mới cơ chế, chính sách, phát triển thị trường năng lượng đồng bộ, liên thông, hiện đại và hiệu quả; phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa.

Toàn cảnh phiên họp
Xây dựng luật

Tháo gỡ vướng mắc, nhưng phải đồng bộ với các luật liên quan

Tại Phiên họp thứ 38 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, một số ý kiến tán thành với đề xuất của Chính phủ sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước theo hướng cho phép các bộ, ngành và địa phương chủ động bố trí kinh phí từ chi thường xuyên cho các dự án ngoài kế hoạch đầu tư công trung hạn, nhưng phải rà soát để bảo đảm đồng bộ với các luật liên quan.

Trưởng Ban Dân nguyện Dương Thanh Bình, Trưởng Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phát biểu tại cuộc làm việc
Xây dựng luật

Chủ động phòng ngừa phát sinh khiếu kiện phức tạp

Làm việc với UBND tỉnh Nghệ An về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội lưu ý, tỉnh cần tiếp tục tập trung chỉ đạo giải quyết các vụ việc khiếu kiện phức tạp, triển khai các biện pháp phòng ngừa, tránh để phát sinh thêm vụ việc khiếu kiện phức tạp, kéo dài, thực hiện chuẩn bị kỹ lưỡng đối với mỗi dự án đầu tư, xây dựng.

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long phát biểu tại phiên họp
Xây dựng luật

Thực hiện tốt hơn việc kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật

Nguyên nhân của việc chậm ban hành văn bản quy định chi tiết là bởi số lượng nhiều, có những văn bản nội dung khó, đã được bàn thảo nhiều lần nhưng chưa có giải pháp. Trả lời chất vấn tại Phiên họp thứ 36 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết, thời gian tới, một trong những giải pháp đặt ra là sửa đổi, bổ sung Quy chế làm việc của Chính phủ theo hướng quy định sát sao hơn và đôn đốc thực hiện tốt hơn quy trình giữa các cơ quan trình và Văn phòng Chính phủ.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải phát biểu chỉ đạo tại cuộc làm việc của Đoàn giám sát với Chính phủ
Xây dựng luật

Do quy định pháp luật hay quá trình thực hiện?

Tại cuộc làm việc với Chính phủ về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2030”, các thành viên Đoàn giám sát của Quốc hội đề nghị, cần làm rõ vướng mắc trong quản lý thị trường bất động sản, phát triển nhà ở xã hội hiện nay do quy định pháp luật hay quá trình thực hiện?

Trao quyền chủ động hơn cho công đoàn trong công tác cán bộ
Xây dựng luật

Trao quyền chủ động hơn cho công đoàn trong công tác cán bộ

Tại phiên thảo luận tổ 4, Đợt 1, Kỳ họp thứ Bảy, Quốc hội Khóa XV vừa qua về Dự thảo Luật Công đoàn (sửa đổi), các đại biểu nhất trí tán thành sự cần thiết sửa đổi Luật Công đoàn 2012; đồng thời, nhấn mạnh cần trao quyền chủ động hơn cho tổ chức công đoàn trong công tác cán bộ để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ đại diện, bảo vệ cho người lao động tại doanh nghiệp. Bởi hiện nay, cán bộ công đoàn tại công đoàn cơ sở đều hoạt động kiêm nhiệm và do người sử dụng lao động trả lương. 

Bài 3: Vì cuộc sống, dẫn dắt và kiến tạo
Xây dựng luật

Bài 3: Vì cuộc sống, dẫn dắt và kiến tạo

Vì cuộc sống, dẫn dắt và kiến tạo chính sách phát triển của đất nước và hành động quyết liệt trong hoạt động lập pháp mang lại hiệu lực thực sự cho cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân. Đấy là hình ảnh sinh động của Quốc Khóa XV đã đi qua nửa chặng đường, luôn theo sát sự lãnh đạo của Đảng, đồng hành cùng Chính phủ, vì Nhân dân, phản ánh kịp thời ý chí, nguyện vọng của Nhân dân trong mỗi quyết sách; tiếp bước chủ động đổi mới, sáng tạo, đột phá trong hoạt động của Quốc hội; nâng tầm vóc của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; rời xa tính hình thức; quyết liệt và tham gia sớm, sâu, thực chất trong xây dựng và quyết định chính sách pháp luật; góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.

Bài 2: Không “bắc nước sôi chờ gạo người"
Xây dựng luật

Bài 2: Không “bắc nước sôi chờ gạo người"

Không “bắc nước sôi chờ gạo người” là tinh thần chủ động, kiên quyết trong công tác lập pháp mà Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhắc nhở các cơ quan của Quốc hội. Nó cũng chính là bước đổi mới công tác lập pháp kế thừa thành quả qua các nhiệm kỳ, trong đó, đổi mới công tác thẩm tra có vai trò then chốt. Nhưng để có bước chuyển biến về chất cần có tư duy mới, đặt đúng vị thế, nhiệm vụ của cơ quan thẩm tra. Quốc hội Khóa XV đã có bước đột phá như vậy. Đặt cơ quan thẩm tra ở vị trí cao không chỉ là “phản biện” chính sách, hoàn thiện kỹ thuật lập pháp mà còn là cơ quan “kiến tạo” chính sách ngay từ đầu.