Nguyên Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh Nguyễn Mai Bộ:
Nghiên cứu kỹ tiêu chí lựa chọn chuyên đề giám sát
Tại khoản 1 Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 giải thích từ “giám sát”, tuy nhiên nội dung chưa làm rõ nội hàm của từ “giám sát” với “xem xét báo cáo”, “xem xét các văn bản quy phạm pháp luật”, “giám sát chuyên đề”, “chất vấn”, “giải trình” và “lấy phiếu tín nhiệm”.

Nguyên Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh Nguyễn Mai Bộ
Tại khoản 5 và 6 Điều này có giải thích “Giám sát của Quốc hội” và “Giám sát của HĐND” gồm các giám sát của các chủ thể giám sát. Do vậy, cần hoàn thiện khoản 1 Điều 2 Luật hiện hành theo hướng bổ sung các hình thức giám sát vào khoản này như sau: “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý; bao gồm xem xét báo cáo, xem xét các văn bản quy phạm pháp luật, giám sát chuyên đề, chất vấn, giải trình và lấy phiếu tín nhiệm”.
Hoặc có thể quy định theo hướng “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý; giám sát của Quốc hội và HĐND bao gồm xem xét báo cáo, xem xét các văn bản quy phạm pháp luật, giám sát chuyên đề, chất vấn, giải trình và lấy phiếu tín nhiệm”.
Tại khoản 5, 8, 17, 26, 34, 36, 42, 46 Điều 1 dự thảo Luật bổ sung quy định về tiêu chí lựa chọn chuyên đề giám sát của các chủ thể giám sát nhưng rất chung chung, cụ thể là những vấn đề mang tính thời sự, xảy ra nhiều vi phạm pháp luật, có nhiều hạn chế trong chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước... Quy định như trên vừa khó xác định chuyên đề giám sát vừa không phù hợp với quy định tại Điều 27 Luật Tổ chức Quốc hội về trách nhiệm của ĐBQH với cử tri là thu thập, phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị (trong đó có kiến nghị về giám sát) của cử tri với Quốc hội. Do đó, cần nghiên cứu lại quy định về tiêu chí lựa chọn chuyên đề giám sát, bảo đảm đồng bộ với quy định tại Điều 27 Luật Tổ chức Quốc hội.
GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, Trường Đại học Tôn Đức Thắng:
Chất vấn - công cụ hiệu quả nhất của giám sát
Trong tất cả các công cụ giám sát của Quốc hội, chất vấn và cho ý kiến về các báo cáo là các công cụ được sử dụng nhiều nhất. Chất vấn dường như là công cụ hiệu quả nhất của giám sát. Với các phiên chất vấn công khai, báo chí đóng một vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm hiệu quả công tác giám sát của Quốc hội.

GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, Trường Đại học Tôn Đức Thắng
So sánh các kỳ họp trước đây với kỳ họp gần đây có thể thấy, vấn đề chất vấn của ĐBQH cũng như việc trả lời của các Bộ trưởng có nhiều tiến bộ một cách rõ rệt. Về phía ĐBQH, câu hỏi được nêu ra một cách xác đáng, rõ ràng, cụ thể hơn. Phần trả lời của các Bộ trưởng cũng tốt hơn, đã nhận thấy trách nhiệm trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền phụ trách.
Để hoạt động chất vấn ngày càng phát huy tác dụng hơn nữa, cần làm rõ việc các Bộ trưởng, trưởng ngành phải thực hiện lời hứa, cam kết và có giải pháp gì để khắc phục điểm nghẽn, vướng mắc còn tồn tại trong lĩnh vực được giao quản lý. Chất vấn của ĐBQH là một hình thức thực hiện chức năng giám sát trực tiếp của Quốc hội đối với các cơ quan, người có trách nhiệm thực thi các luật và nghị quyết của Quốc hội. Hình thức giám sát này có hiệu năng cao hơn các hình thức khác ở chỗ sẽ phát huy được sức mạnh của công luận, nhất là khi phiên họp của Quốc hội được phát thanh, truyền hình trực tiếp.
Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Thị Thu Hà:
Không cần thiết bổ sung hoạt động giải trình tại Ban của HĐND
Từ thực tiễn tại địa phương cũng như qua hoạt động giám sát, có thể thấy còn những nội dung bị trùng đối tượng giám sát. Cấp thực thi trực tiếp là ở địa phương, nếu chỉ giám sát ở Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương sẽ không thể đi đến cùng vấn đề để xem xét việc thực hiện chính sách có đạt được yêu cầu hay không?

Phó trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Thị Thu Hà
Tôi đồng tình với quan điểm quy định về nguyên tắc, còn cụ thể đối tượng giám sát của từng chuyên đề giám sát sẽ xác định theo kế hoạch và nghị quyết của chuyên đề đó. Như vậy sẽ mang lại hiệu quả tích cực hơn. Thời gian qua, rất nhiều chuyên đề giám sát đã xác định có những công việc giao cho Đoàn ĐBQH chủ trì giám sát nhưng có những việc do các Tổ công tác của Đoàn giám sát thực hiện, tạo linh hoạt trong triển khai thực hiện.
Báo cáo đề dẫn tại Hội thảo cũng đã nêu vấn đề có nên bổ sung hoạt động giải trình tại phiên họp của Ban của HĐND hay không, theo tôi là không cần thiết vì hiện nay hàng tháng hoặc hàng kỳ các Ban của HĐND đều phải báo cáo với Thường trực HĐND. Nên quy định Thường trực HĐND chủ trì thực hiện Phiên giải trình thay cho việc bổ sung hoạt động giải trình tại phiên họp của Ban của HĐND sẽ có tính bao phủ rộng rãi hơn, và các Ban sẽ đóng vai trò tham mưu cho Thường trực HĐND trong tổ chức Phiên giải trình.
Mặt khác, Quốc hội vừa thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) và Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi), trong đó quy định rõ việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho các địa phương. Vì vậy, việc nâng cao hơn nữa vai trò giám sát của Quốc hội và HĐND là hoàn toàn phù hợp và thỏa đáng.
Bên cạnh đó, cần quan tâm đến công tác phối hợp giữa Đoàn ĐBQH và HĐND trong thực hiện giám sát. Hiện nay chưa có nguyên tắc mang tính thống nhất và hướng dẫn cụ thể nên dẫn đến tình trạng mỗi đoàn, mỗi địa phương phối hợp giám sát cũng khác nhau. Do đó, cần có nguyên tắc yêu cầu phối hợp cụ thể để thực hiện giám sát hiệu quả hơn, tránh bị trùng lặp về nội dung, đối tượng giám sát.