Theo đại biểu, tại khoản 1 điều 9 Dự thảo luật quy định về các khoản chi được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế, tôi đề nghị Ban soạn thảo cần xem xét bổ sung thêm đối tượng “khoản chi cho thực hiện hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) bằng 150% chi phí thực tế của hoạt động này khi tính thuế TNDN”.
Hiện nay, Việt Nam đang nỗ lực chuyển đổi mô hình kinh tế theo hướng tăng trưởng dựa trên tri thức và đổi mới sáng tạo. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu và phát triển (R&D) đóng vai trò cốt lõi, tạo động lực cho doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững. Tuy nhiên, chi phí cho hoạt động nghiên cứu và phát triển thường rất lớn, đặc biệt đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, khiến nhiều đơn vị khó khăn trong việc đầu tư dài hạn.
Chính sách này không chỉ tạo điều kiện tài chính trực tiếp cho doanh nghiệp mà còn khuyến khích họ mạo hiểm hơn trong các dự án đổi mới công nghệ và phát triển sản phẩm mới. Hiện nay, một số quốc gia trong khu vực như Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc đã áp dụng chính sách ưu đãi thuế đặc biệt cho nghiên cứu và phát triển với mức khấu trừ chi phí từ 150% đến 250%, tạo lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ cho doanh nghiệp nội địa. Nếu Việt Nam không theo kịp xu thế này, nguy cơ tụt hậu về đổi mới sáng tạo là rất lớn, đặc biệt khi chúng ta đang phải cạnh tranh gay gắt trong khu vực.
Ngoài ra, việc bổ sung “khoản chi cho thực hiện hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) bằng 150% chi phí thực tế của hoạt động này khi tính thuế TNDN chi phí thực tế cho R&D” vào đối tượng được trừ chi phí khi tính thuế TNDN không chỉ mang lại lợi ích ngắn hạn cho doanh nghiệp, mà còn tạo ra tác động lan tỏa tích cực đến nền kinh tế. Các sáng kiến từ nghiên cứu và phát triển thường dẫn đến tăng năng suất lao động, mở rộng thị trường và gia tăng giá trị xuất khẩu, từ đó giúp tăng thu ngân sách về lâu dài. Đồng thời, chính sách này cũng góp phần thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn công nghệ cao, khi họ nhìn thấy cam kết của Chính phủ trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
“Vì vậy, bổ sung ưu đãi thuế cho hoạt động nghiên cứu và phát triển không chỉ là chính sách tài khóa mà còn là chiến lược phát triển quốc gia. Đây là thời điểm thích hợp để Chính phủ đưa ra những quyết sách đột phá, đồng hành cùng doanh nghiệp trên hành trình đổi mới và hội nhập toàn cầu”, ĐBQH Nguyễn Như So nêu.
Về quy định tại điểm m khoản 2 Điều 9 Dự thảo Luật: “các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế bao gồm khoản chi không tương ứng với doanh thu tính thuế”, đại biểu cho rằng đây là quy định mới được bổ sung tại dự thảo Luật nhưng đang khiến cộng đồng doanh nghiệp vô cùng lo ngại vì bộc lộ nhiều nhược điểm. Đại biểu đề xuất cân nhắc loại bỏ quy định này nhằm đảm bảo tạo động lực cho doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực mới, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách hiệu quả và thực chất.
Đối với, khoản 3 Điều 3 Dự thảo Luật bổ sung quy định về thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam của doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam. Cụ thể, thu nhập này bao gồm các khoản có nguồn gốc từ Việt Nam, như: thu nhập từ chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản, thu nhập từ quyền sử dụng, quyền sở hữu tài sản, bao gồm cả thu nhập từ quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, thu nhập từ chuyển nhượng, cho thuê, thanh lý tài sản, trong đó có các loại giấy tờ có giá,…. không phụ thuộc vào địa điểm tiến hành kinh doanh. quy định này chưa bao quát một số trường hợp phổ biến trong thực tiễn kinh doanh quốc tế. Cụ thể, nhiều doanh nghiệp nước ngoài sở hữu vốn tại Việt Nam thông qua doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) được thành lập tại Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư. Các dự án này thường gắn liền với việc được Nhà nước giao đất để triển khai.
Trong thực tế, việc chuyển nhượng quyền sở hữu vốn trong doanh nghiệp FDI này thường được thực hiện thông qua giao dịch chuyển nhượng vốn giữa các pháp nhân nước ngoài với nhau, không diễn ra tại Việt Nam. Dù vậy, bản chất của giao dịch này là chuyển nhượng quyền kiểm soát vốn, tài sản, và quyền sử dụng đất tại Việt Nam.
Do đó, đại biểu đề xuất cần bổ sung quy định về thu nhập chịu thuế đối với giao dịch chuyển nhượng vốn giữa các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó doanh nghiệp được chuyển nhượng đang sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất, hoặc quyền thực hiện dự án tại Việt Nam nhằm xác định rõ ràng thu nhập phát sinh từ các giao dịch này thuộc phạm vi chịu thuế tại Việt Nam, đảm bảo thu thuế hiệu quả, công bằng, và phù hợp với thông lệ quốc tế.