75 năm Quốc hội Việt Nam – Những thành tựu lập pháp

Bài 3: Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân

Quản lý xã hội bằng pháp luật thực sự trở thành một nhu cầu của đời sống xã hội hiện đại, là thách thức và đòi hỏi trong tiến trình đổi mới và hội nhập.

Đ

iều đó đặt ra những nhiệm vụ cho cả hệ thống chính trị mà trước tiên là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp. Trong đó hoạt động lập pháp của Quốc hội có vị trí quan trọng trong tiến trình thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tiến trình này có những bước tiến đột phá đi đầu đặt nền tảng pháp lý trong cải cách tổ chức, hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN.

Những bước tiến trong hoàn thiện bộ máy nhà nước

Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 là những dấu mốc pháp lý trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền. Trong đó, Hiến pháp 1992 đánh dấu thời kỳ đổi mới toàn diện, những đột phá về tổ chức bộ máy thời kỳ hội nhập và phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời đặt ra yêu cầu, nhu cầu thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi quản lý xã hội, quản lý kinh tế từ chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, kế hoạch, văn bản pháp quy sang quản lý bằng luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội dần hình thành và ổn định. Trước những đòi hỏi của giai đoạn phát triển mới, vai trò của Quốc hội tiếp tục được nâng cao, hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng đi vào thực chất, hiệu lực, hiệu quả.

Một buổi làm việc của Ủy ban sửa đổi Hiến pháp 1992 của Quốc hội dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước kiêm Chủ tịch Ủy ban Võ Chí Công
Một buổi làm việc của Ủy ban sửa đổi Hiến pháp 1992 của Quốc hội dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước kiêm Chủ tịch Ủy ban Võ Chí Công

Từ nền móng đổi mới tổ chức của Quốc hội các khóa, hoạt động lập pháp của Quốc hội trong những nhiệm kỳ IX, X, XI, XII, XIII, XIV được đẩy mạnh không ngừng trên cả 3 phương diện: phản ứng nhanh với thực tiễn và các yêu cầu thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng, ý chí nguyện vọng của nhân dân; từ thực tiễn quản lý xã hội, yêu cầu phát triển và bảo vệ đất nước để ban hành luật điều chỉnh kịp thời. Nhiều đạo luật quan trọng, hoàn toàn mới trong nền pháp luật nước ta, trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh ra đời trong giai đoạn này. Kế thừa, nâng cao tính ổn định, thống nhất của hệ thống pháp luật, tính hiệu lực, hiệu quả quản lý trên cơ sở nâng các pháp lệnh thành luật; các nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật phục vụ quản lý nhà nước và xã hội.

Bên cạnh đó, sự tác động biện chứng từ hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật đặt ra yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo kịp với cơ chế vận hành mới. Theo đó, tăng cường pháp chế, kỷ cương, kỷ luật hành chính; xây dựng đội ngũ làm công tác pháp luật chuyên sâu ở các cấp, các ngành, đội ngũ tư vấn pháp lý và truyền thông nâng cao nhận thức pháp luật; mở rộng và coi trọng vai trò luật sư bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân, của nhà nước. Và đặc biệt trong các khóa gần đây, Quốc hội quan tâm hoàn thiện quy trình làm luật, góp phần nâng cao năng lực lập pháp của bộ máy nhà nước, của Quốc hội; đại biểu Quốc hội. Hệ thống luật dần được hình thành, bổ sung, sửa đổi đồng bộ, thống nhất, bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội; làm nền tảng đổi mới phát triển kinh tế, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. 

Bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân

Bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân là một thành tựu quan trọng của bộ máy nhà nước; đồng thời là một trong những điểm sáng trong hoạt động lập pháp. Tại Hiến pháp 1946 - Bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước độc lập dân chủ nhân dân đã trang trọng khẳng định tại Điều thứ nhất “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Hiến pháp 1946 đã dành toàn bộ chương 2 với 18 điều quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân trong đó khẳng định tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền trên mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa, bình đẳng trước pháp luật và các quyền tự do ngôn luận, hội họp, tín ngưỡng, tư hữu tài sản, quyền học hành, chữa bệnh, quyền ứng cử, bầu cử…

Không đơn giản là vấn đề Hiến định về quyền con người, quyền công dân mà chính là sự đúc kết cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ của nhân loại, bình đẳng, tự quyết của các dân tộc; coi trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân mọi quốc gia, dân tộc. Những quy định của Hiến pháp đầu tiên thực sự là nền tảng, kim chỉ nam cho xây dựng và thực hiện hệ thống pháp luật bảo đảm thực hiện quyền công dân, quyền con người ở Việt Nam. 

Tiếp đó, các Hiến pháp 1959, 1980, 1992, 2013 tiếp tục khẳng định thành quả quan trọng này và phát triển sâu, rộng, đi vào cụ thể trong hệ thống pháp luật, đời sống xã hội và nâng cao lên ở tầng nấc mới trên nền tảng yêu cầu phát triển từng giai đoạn, thành tựu mới của đất nước, sự hợp tác, đấu tranh tôn trọng quyền con người, quyền của các dân tộc trong hội nhập quốc tế. Đặc biệt, Hiến pháp 2013 đã kế thừa thành tựu xây dựng đất nước, bổ sung các quy định về quyền con người, quyền công dân và nâng lên một tầm cao mới; thúc đẩy hoàn thiện và thực thi đầy đủ pháp luật bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Quốc hội thông qua hoạt động lập pháp thể chế hóa kịp thời đường lối và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước về bảo vệ quyền con người, quyền công dân ngày càng hoàn thiện, đầy đủ theo kịp hệ thống pháp luật tiến bộ trên thế giới. Chỉ tính từ Hiến pháp 1992 đến nay, Quốc hội ban hành 460 luật, 631 nghị quyết; Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 148 pháp lệnh trực tiếp hay gián tiếp thể hiện đầy đủ và toàn diện về quyền con người trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội...

Tại tọa đàm “5 năm thực hiện Hiến pháp 2013- Những thành tựu lập pháp” do Báo Đại biểu nhân dân tổ chức ngày 15.01.2019, Giáo sư, tiến sĩ Đào Trí Úc (Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội) chia sẻ: Điều 3, Hiến pháp 2013 ghi nhận: "Nhà nước đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Sau đó, nguyên tắc này được nhắc lại hai lần trong ngữ cảnh khác nhau của Hiến pháp, nguyên tắc “công nhận”, “tôn trọng”, “bảo vệ” và “bảo đảm” về quyền con người. Tôi nghĩ rằng đây là thành tựu, là kết quả của sự đổi mới về kinh tế, là sự phát triển của nền kinh tế thị trường đặt ra nhu cầu khách quan về sự tôn trọng tự do về kinh tế dẫn đến tự do về con người. Có thể nói, quyền con người là đỉnh cao của trí tuệ con người, là điểm chói sáng nhất, mục tiêu của quyền con người. Quyền con người trong Hiến pháp chính là chúng ta ghi nhận những kết quả của thành tựu xây dựng nhà nước pháp quyền."

Tọa đàm “5 năm thực hiện Hiến pháp 2013- Những thành tựu lập pháp” do Báo Đại biểu nhân dân tổ chức ngày 15.01.2019
Tọa đàm “5 năm thực hiện Hiến pháp 2013- Những thành tựu lập pháp” do Báo Đại biểu nhân dân tổ chức ngày 15.01.2019

Bảo vệ quyền, công dân, quyền con người không chỉ dừng ở công việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật mà còn ở cơ chế thực thi từ cơ quan hành chính, cán bộ công chức nhà nước tuân thủ nghiêm quy định Hiến pháp, pháp luật; hoạt động xét xử độc lập và tuân thủ theo pháp luật của Tòa án; các quy định về tố tụng bảo đảm quyền con người, quyền công dân chặt chẽ, đầy đủ và thực hiện công minh… Đặc biệt là hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội,  giám sát của UBTVQH, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân trên các lĩnh vực và khắp mọi miền đất nước luôn soi xét các quy định được thực thi như thế nào để có uốn nắn, sửa đổi.

Tác động đến tiến trình đổi mới tổ chức bộ máy

Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp, pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Điều đó còn phản ánh quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước trong suốt thời kỳ đổi mới; đồng thời phản ánh thành quả của hoạt động lập pháp và trình độ phát triển của đất nước trong thời kỳ phát triển và hội nhập quốc tế sâu, rộng. Trong mỗi nhiệm kỳ, chúng ta đều tiến hành sửa đổi Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Bầu cử và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Cán bộ công chức… Đây là sự điều chỉnh kịp thời bộ máy nhà nước qua tổng kết nhiệm kỳ và trước yêu cầu mới của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử phát triển đặt ra.

Mặt khác, cần thấy rõ, hệ thống pháp luật được hình thành ngày càng đầy đủ, toàn diện và cụ thể thì sự vận hành nó ở các tầng nấc từ trung ương đến cơ sở đòi hỏi trách nhiệm và tính chuyên nghiệp và cùng bộc lộ những vướng mắc, bất cập làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước. Việc rà soát các quy định pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, triệt tiêu lẫn nhau hay tạo ra những “lỗ hổng” trong hoạt động quản lý theo pháp luật trở thành vấn đề quan trọng trong nâng cao hiệu lực hoạt động của bộ máy Nhà nước cũng như giá trị, hiệu lực thực sự của luật do Quốc hội ban hành.

Kỳ họp thứ X, Quốc hội XIV Ảnh: Quang Khánh
Kỳ họp thứ X, Quốc hội XIV
Ảnh: Quang Khánh

Theo TS Bùi Ngọc Thanh, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội: "Vấn đề làm luật không chỉ là vấn đề quy trình mà đến từ con người, những chủ thể tham gia quy trình đó hành xử như thế nào? Rõ ràng vai trò của đại biểu là đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân cả nước rất quan trọng. Mặt khác, tính chuyên nghiệp, tri thức khoa học pháp lý và thực tiễn, kỹ thuật lập pháp, phân tích chính sách, xây dựng chính sách và chuyển hóa đời sống, quan hệ xã hội sinh động thành các quy định của luật... mang tính quyết định trong hoạt động lập pháp, quyết định chất lượng luật còn hình thức hay sẽ thực chất, cụ thể hay chung chung, khả thi hay không vào cuộc sống." Điều này trước hết đòi hỏi sự thay đổi cơ cấu tổ chức của Quốc hội theo hướng ngày càng chuyên nghiệp, chuyên sâu hơn. Mà điều đầu tiên là tăng tỷ lệ đại biểu chuyên trách; tăng cường tính chuyên nghiệp của đại biểu Quốc hội, trình độ năng lực chuyên môn trong hoạt động lập pháp trên các lĩnh vực và tính đại diện cho lợi ích chung của cộng đồng và các tầng lớp nhân dân, thấu đạt ý chí nguyện vọng của nhân dân cả nước.

Đi theo xu hướng này, Luật Tổ chức Quốc hội (Khóa IX) đã có quy định đại biểu chuyên trách với công việc, nhiệm vụ rõ ràng. Từ đó, số lượng đại biểu chuyên trách tăng dần qua các khóa từ 25% đến 30%; bầu cử Quốc hội Khóa XV sẽ là 35%. Tỷ lệ tăng dần đã phản ánh đòi hỏi, nhu cầu của công tác lập pháp thường xuyên và chất lượng hơn nữa; nâng cao vị thế, vị trí, vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân trong việc hoạch định, quyết định chính sách và đặt ra pháp luật để quản lý mọi mặt đời sống xã hội.

Những đóng góp của hoạt động lập pháp trên lĩnh vực xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm thực hiện quyền công dân, quyền con người và xây dựng bộ máy chính quyền nói chung và đổi mới tổ chức Quốc hội nói riêng là những dấu mốc lịch sử quan trọng trong thành tựu lập pháp 75 năm qua; góp phần đưa đất nước vững bước bước vào thời kỳ hội nhập toàn cầu hóa, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc.

___________
Tài liệu tham khảo

- Tọa đàm của Báo ĐBND về "5 năm thực hiện Hiến pháp 2013- Những thành tựu lập pháp".
- 50 năm, 60 năm, 70 năm Quốc hội Việt Nam.
- Cơ sở dữ liệu hồ sơ, tài liệu lưu trữ của Quốc hội.
- Hiến pháp 1946, 1959,1980,1992,2013.
- Nghị quyết số 56/2017/QH14 của Quốc hội Về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt hiệu lực, hiệu quả.

Lập pháp

toàn cảnh phiên họp
Xây dựng luật

Hỗ trợ tốt nhất cho người dân tại các khu vực khai thác khoáng sản

Thảo luận về dự thảo Luật Địa chất và khoáng sản, các đại biểu Quốc hội thống nhất, cần tạo căn cứ pháp lý để bắt buộc tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản thực hiện trách nhiệm hỗ trợ kinh phí đầu tư nâng cấp, duy tu, xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình bảo vệ môi trường trên địa bàn. Quy định này nhằm hỗ trợ tốt nhất cho người dân tại các khu vực khai thác khoáng sản.

TS. Bắc
Kinh tế

Nâng quy mô dự án là mở không gian cho tư duy mới

Theo TS. NGUYỄN PHƯƠNG BẮC, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Bắc Ninh, dự thảo Luật Đầu tư công (sửa đổi) có nhiều điểm mới quan trọng. Trong đó, việc nâng quy mô dự án chính là mở không gian cho tư duy mới, để thiết kế các dự án theo cách liên kết với nhau, mang tính tổng thể, tức là những dự án lớn. Điều này phù hợp với bối cảnh mới - bước vào “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét Báo cáo kết quả của Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023”.
Quốc hội và Cử tri

Giải pháp căn cơ phát triển bền vững nhà ở xã hội

Trương Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế Hiệp hội Bất động sản Việt Nam

Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 34/CT-TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát triển nhà ở xã hội trong tình hình mới. Cùng với kết quả giám sát tối cao của Quốc hội, cần thực hiện các giải pháp căn cơ, dài hạn để phát triển bền vững nhà ở xã hội.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành phiên họp
Xây dựng luật

Bảo đảm việc tham gia bảo hiểm trách nhiệm được thực hiện nghiêm túc, công bằng

Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) lần này đã bổ sung quy định bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Theo các đại biểu Quốc hội, cần rà soát, đánh giá kỹ về tính hiệu quả xã hội khi quy định đây là loại bảo hiểm bắt buộc; đồng thời, quy định rõ trách nhiệm của công chứng viên hoặc tổ chức hành nghề công chứng trong trường hợp số tiền bồi thường từ bảo hiểm không đủ chi trả cho thiệt hại của khách hàng.

quang cảnh phiên họp
Xây dựng luật

Bảo đảm minh bạch, đồng thuận trong quá trình triển khai quy hoạch

Dự thảo Luật quy định thời gian lấy ý kiến cộng đồng dân cư có liên quan về quy hoạch trong vòng 30 ngày, nhưng chưa quy định về việc tiếp thu, phản hồi ý kiến như thế nào, vì vậy có ý kiến đề nghị, ban soạn thảo quy định rõ cơ chế tiếp nhận, xử lý phản hồi lại cho cộng đồng dân cư. Đồng thời, bổ sung quy định về việc tổ chức các cuộc đối thoại công khai giữa các cơ quan chức năng và người dân trong trường hợp có tranh chấp hoặc bất đồng ý kiến về quy hoạch, để bảo đảm minh bạch và đồng thuận, thuận lợi hơn trong quá trình triển khai quy hoạch.

Phó Trưởng Đoàn chuyên trách phụ trách Đoàn ĐBQH tỉnh Hòa Bình Đặng Bích Ngọc
Xây dựng luật

Rõ trách nhiệm để xử lý các rủi ro, rào cản

Đóng góp ý kiến tâm huyết tại Hội nghị khảo sát, lấy ý kiến góp ý đối với dự thảo Luật Điện lực (sửa đổi) của Đoàn ĐBQH tỉnh Hòa Bình mới đây, liên quan đến các quy định về đấu thầu, có đại biểu cho rằng, việc rõ ràng trong các quy định pháp lý về đấu thầu, đấu giá hay cụ thể trách nhiệm của chủ đầu tư khi tham gia vào các dự án điện vô cùng quan trọng. Vì vậy, cần làm rõ được trách nhiệm để xử lý các rủi ro, những rào cản, đặc biệt là rào cản liên quan đến hành lang pháp lý.

Việc bổ sung quy định trong Luật Điện lực bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng giữa các đơn vị điện lực
Xây dựng luật

Yêu cầu xuất phát từ thực tiễn

Sau gần 20 năm triển khai thi hành, Luật Điện lực hiện hành cần thiết phải sửa đổi, bổ sung, nhằm đáp ứng mục tiêu triển khai các chính sách của Đảng đối với lĩnh vực năng lượng nói chung, điện lực nói riêng, đáp ứng mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.

Trọng tâm sửa đổi Luật Điện lực là điều chỉnh giá điện theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước
Xây dựng luật

Bảo đảm những mục tiêu quan trọng

Dự án Luật Điện lực (sửa đổi) được xây dựng với mục đích hoàn thiện quy định pháp luật về điện lực, phù hợp với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, luật hóa định hướng chủ trương, chính sách về đổi mới cơ chế, chính sách, phát triển thị trường năng lượng đồng bộ, liên thông, hiện đại và hiệu quả; phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định yêu cầu phải khắc phục cho được "độ trễ" của chính sách
Lập pháp

Khắc phục “độ trễ” của chính sách

Tiếp tục hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, đồng thời, khắc phục cho được “độ trễ” của chính sách, tránh tình trạng chính sách chậm đi vào cuộc sống là một trong những giải pháp căn bản, toàn diện trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội được các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhấn mạnh tại Phiên họp thứ 38.

Toàn cảnh phiên họp
Xây dựng luật

Tháo gỡ vướng mắc, nhưng phải đồng bộ với các luật liên quan

Tại Phiên họp thứ 38 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, một số ý kiến tán thành với đề xuất của Chính phủ sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước theo hướng cho phép các bộ, ngành và địa phương chủ động bố trí kinh phí từ chi thường xuyên cho các dự án ngoài kế hoạch đầu tư công trung hạn, nhưng phải rà soát để bảo đảm đồng bộ với các luật liên quan.

Thiết lập định nghĩa rõ ràng cho các hệ thống trí tuệ nhân tạo có rủi ro cao
Quốc hội và Cử tri

Thiết lập định nghĩa rõ ràng cho các hệ thống trí tuệ nhân tạo có rủi ro cao

Nêu rõ trí tuệ nhân tạo là một lĩnh vực mới, đặt ra những thách thức về quản lý không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với các khu vực trên thế giới, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh nhấn mạnh, để bảo đảm phân định rõ ràng trách nhiệm và nghĩa vụ giữa người dùng, nhà cung cấp, nhà phát triển và bên triển khai, nên thiết lập định nghĩa rõ ràng cho các hệ thống trí tuệ nhân tạo có rủi ro cao.