75 năm Quốc hội Việt Nam – Những thành tựu lập pháp

Bài 2: Sự hình thành và vận động của hệ thống pháp luật

Luật pháp cũ là ý chí của thực dân Pháp, không phải ý chí chung của nhân dân ta. Luật pháp cũ đặt ra để giữ gìn trật tự xã hội thật, nhưng trật tự xã hội ấy chỉ có lợi cho thực dân, phong kiến...”. (1) 

V

à cuộc đấu tranh thay đổi hệ thống pháp luật cũ không phải là một sớm một chiều mà là tiến trình của nhà nước cách mạng. Đó là cuộc đấu tranh với nhận thức xã hội cũ lệ thuộc, thói quen cũ tùy tiện, tù túng trong vòng cương tỏa của thực dân, phong kiến để từng bước xây dựng hệ thống pháp luật mới trong điều kiện đất nước kháng chiến kiến quốc, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn.

Từ đơn lẻ đến hệ thống

Ngay sau khi ra đời, Quốc hội Khóa I tập trung vào nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc. Trong thời gian này, mặc dù yêu cầu lập pháp rất lớn nhưng Quốc hội chỉ ban hành được 11 luật. Tập trung cho lĩnh vực thiết yếu là tổ chức bộ máy nhà nước như bầu cử đại biểu Quốc hội; tổ chức chính quyền địa phương; nghĩa vụ quân sự; hôn nhân và gia đình; về cải cách ruộng đất; chế độ báo chí, lập hội, công đoàn; bảo đảm quyền tự do thân thể, quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín nhân dân; đồng thời, Quốc hội ban hành 53 nghị quyết tập trung về lĩnh vực kinh tế, tổ chức chính quyền, ngoại giao, triển khai thi hành luật; phê chuẩn các sắc luật của Chính phủ. Với số lượng có hạn, các luật, nghị quyết ban hành trong khoảng thời gian 13 năm hoạt động lập pháp của Quốc hội Khóa I nhằm phục vụ xây dựng và củng cố tổ chức bộ máy nhà nước, vận hành nền kinh tế thuần nông trong thời chiến và một số vấn đề về an ninh quốc phòng, ngoại giao, tôn giáo, dân tộc, quyền công dân…

Từ sau Hiến pháp năm 1959 đến 1975 là thời kỳ đấu tranh thống nhất đất nước. Quốc hội II, III và IV đi vào hoạt động phục vụ công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và tiến hành đấu tranh giải phóng miền Nam. Đất nước trong thời kỳ chiến tranh gay go, ác liệt, cả nước tập trung cho tiền tuyến lớn, Quốc hội ba khóa chỉ ban hành được 7 luật, tập trung vào hoàn thiện bộ máy nhà nước mà trước kia chưa ban hành luật để điều chỉnh như tổ chức Quốc hội, Hội đồng Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Bên cạnh đó, Quốc hội cũng ban hành 56 nghị quyết tập trung cho kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, ngân sách nhà nước, nghị quyết về báo cáo của Chính phủ. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) ban hành 19 pháp lệnh đầu tiên về việc bầu cử HĐND các cấp, ban hành ngày 18.1.1961. 

Có thể thấy hoạt động lập pháp trong giai đoạn này phản ánh nhiệm vụ lịch sử hàng đầu là đấu tranh giải phóng dân tộc. Tiếp đó là thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Các đạo luật tập trung xác định nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước thời chiến và luật về nghĩa vụ quân sự và các quyền cơ bản của công dân, những vấn đề kinh tế kế hoạch… Các lĩnh vực đời sống xã hội chưa thực sự phát triển theo chiều sâu trong điều kiện chiến tranh; các quan hệ xã hội còn nhiều đơn giản, bó hẹp trong nền kinh tế, kế hoạch hóa với chỉ một hình thức sở hữu tư liệu sản xuất của Nhà nước; ưu tiên tập trung nguồn lực cho đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Đây là giai đoạn đặc thù mà hoạt động lập pháp chưa đặt ra đòi hỏi bức bách, thường xuyên; nhiều nhu cầu nhà nước ban hành văn dưới luật để điều chỉnh như nghị quyết, nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư và trong một chừng mực nhất định là công văn, thông báo... Trong điều kiện này chưa thể hình thành chương trình xây dựng pháp luật và quy trình làm luật toàn diện, đầy đủ.

Năm 1976, Quốc hội Khóa VI (1976-1981), đất nước thống nhất hai miền Nam - Bắc, cơ hội phát triển mới mở ra xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Nhưng khó khăn, thách thức mới trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước cũng lập tức ập đến, đất nước tập trung mọi nguồn lực trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc và giúp Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng; vượt qua bao vây cấm vận, tìm con đường cởi trói phát triển kinh tế. Những giới hạn nhận thức phát triển trong bối cảnh mới, đặc biệt là biến động của tình hình thế giới, khu vực và sự chuyển động bên trong của hệ thống nhà nước XHCN đã tác động mạnh mẽ đến con đường xây dựng lại đất nước sau chiến tranh. Quốc hội Khóa VI thông qua Hiến pháp 1980, ban hành được 01 luật là Luật Bầu cử Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và 32 nghị quyết; UBTVQH ban hành 6 pháp lệnh. Hoạt động lập pháp thời điểm này còn mờ nhạt; hoạt động lập quy vẫn chiếm vị trí quan trọng. 

Bài 2: Sự hình thành và vận động của hệ thống pháp luật ảnh 1

Bước đột phá hoạt động lập pháp

Mãi đến những năm cuối thập kỷ 80 của thời kỳ đổi mới, những nét đột phá của bộ máy nhà nước, vai trò to lớn của Quốc hội mới dần được làm rõ và khẳng định. Năm 1986, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh trong bài phát biểu đầu tiên tại Kỳ họp thứ Nhất, QH Khóa VIII đã đề cập Đất nước đổi mới, Đảng đổi mới thì Quốc hội cũng phải đổi mới. Tổng bí thư nói: Đừng biến Quốc hội thành cây kiểng (cây cảnh). Quốc hội hoạt động hình thức nhiều quá, nên từ nay phải đi vào thực chất. Đây cũng chính là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của người đứng đầu Đảng nâng cao vị trí, vai trò của Quốc hội trong đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước; trong quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao; đặc biệt là hoạt động lập pháp được nâng lên tầm cao mới trước yêu cầu quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật.

Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với các nhà báo tại kỳ họp Quốc hội Khóa VIII
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với các nhà báo tại kỳ họp Quốc hội Khóa VIII

Sự bùng nổ của hoạt động lập pháp thực sự bắt đầu từ Quốc hội Khóa VIII khi hoạt động lập pháp vượt lên thách thức mới, tạo khung khổ pháp lý đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội; phá thế bao vây cấm vận; khơi thông các nguồn lực của đất nước. Từ sau Hiến pháp 1980 đến Hiến pháp 1992, Quốc hội đã ban hành được 40 luật, Hội đồng Nhà nước ban hành được 59 pháp lệnh. Đây là thời kỳ hệ thống pháp luật có những chuyển động dích dắc, mở đầu là những đạo luật củng cố tổ chức bộ máy nhà nước theo mô hình tổ chức của các nước XHCN, các đạo luật về kinh tế, xã hội theo cơ chế chỉ huy dần chuyển sang mô hình mới, với tư tưởng đột phá về phát triển kinh tế thị trường. Những đạo luật phản ánh tư duy giáo điều, duy ý chí, bó buộc sớm lạc hậu trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, những thay đổi nhanh chóng của thực tiễn cách mạng và tình hình thế giới lúc bấy giờ. Vào cuối giai đoạn này, Quốc hội đã ban hành các đạo luật chứa đựng tư duy mới, cơ chế quản lý mới đột phá so với các quy định của Hiến pháp 1980 như: Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân ban hành 21.12.1990... Đây chính là sự phản ánh yêu cầu giai đoạn đổi mới và việc xây dựng hành lang pháp lý đầu tiên cho sự phục hồi nền kinh tế, đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, nhìn nhận về nền pháp luật Việt Nam lúc này thì nhu cầu về hệ thống pháp luật đầy đủ điều chỉnh mọi mặt của đời sống xã hội đặt ra gay gắt trong khi cơ cấu tổ chức hoạt động của Quốc hội chưa tương xứng với vị trí, vai trò.

Hình thành hệ thống pháp luật trên các lĩnh vực

Sự phôi thai của hệ thống pháp luật đầy đủ, điều chỉnh mọi mặt của đời sống xã hội đã hình thành, những thách thức lớn trong công tác lập pháp của Quốc hội cũng đặt ra những yêu cầu mới về tổ chức và hoạt động của Quốc hội nhất là sau khi Quốc hội ban hành Hiến pháp 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới mạnh mẽ, gỡ bỏ những ràng buộc cũ về lực lượng sản xuất bó hẹp, quan hệ sản xuất lạc hậu, đa dạng các hình thức sử dụng đất đai, tư liệu sản xuất cá nhân, tập thể và nhà nước; hoàn thiện bộ máy nhà nước và nâng cao các quyền con người, quyền công dân và cơ chế đảm bảo thực hiện các quyền đó... 

Khi có Hiến pháp năm 1992, các luật được ban hành trong thời kỳ đổi mới khác đến 90-95% về nội dung. Bởi việc xây dựng luật trong giai đoạn này nhằm phục vụ cho công cuộc đổi mới, xây dựng xã hội lớn mạnh, văn minh hơn, kinh tế phát triển hơn. Và tốc độ xây dựng luật của Quốc hội ở giai đoạn này tăng nhanh, nội dung Luật đổi mới căn bản nhằm mục tiêu xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, góp phần đắc lực vào việc thực hiện một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Điều đó khẳng định sứ mệnh, trọng trách của Quốc hội ở giai đoạn này rất cao cả.” - TS Bùi Ngọc Thanh, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội chia sẻ. 

Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp 1992, trước yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, một hệ thống pháp luật mới đã được Quốc hội các Khóa VIII, IX xây dựng và hoàn thiện, khắc phục căn bản tính chất, hệ quả của hệ thống pháp luật của thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu, bao cấp; tạo lập nền tảng pháp lý cho đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, theo nguyên tắc pháp quyền và tái cấu trúc nền kinh tế theo quy luật của thị trường định hướng XHCN.

Luật, pháp lệnh bước đầu đi vào ngõ ngách của cuộc sống, phục vụ hoạt động quản lý nhà nước, phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương đất nước.

Quốc hội Khóa IX thực sự là Quốc hội đột phá đi đầu tạo dựng nền tảng đưa hoạt động lập pháp sang một trang sử mới. Đến Quốc hội X, XI, XII, XIII, XIV, hoạt động lập pháp tiếp tục phát triển mạnh mẽ, sâu rộng, bao quát các lĩnh vực đời sống xã hội và dần chuyên nghiệp hơn; kỹ thuật lập pháp được chú trọng, nâng cao ở tầm vóc mới từ quy trình xây dựng luật đến phương thức huy động các nguồn lực, trí tuệ, ý kiến của chuyên gia, của nhân dân, của đối tượng liên quan, sự đóng góp ngày càng sâu sắc của các đại biểu Quốc hội và vai trò dẫn dắt thẩm định của cơ quan thẩm tra…

Trong vòng 30 năm, Quốc hội đã ban hành được 460 đạo luật, 516 nghị quyết, UBTVQH ban hành được 148 pháp lệnh bao quát các lĩnh vực đời sống xã hội như: tổ chức bộ máy, quyền con người, quyền công dân, kinh tế, doanh nghiệp, an ninh quốc phòng, văn hóa xã hội, khoa học công nghệ, tư pháp… phục vụ sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc; đưa đất nước hội nhập, cạnh tranh phát triển trong thời kỳ mới. Đặc biệt Quốc hội Khóa XIII đã đạt kỷ lục về số lượng luật được ban hành với Hiến pháp 2013 và 108 đạo luật. (Tham khảo thêm Biểu đồ tỷ lệ luật điều chỉnh trên các lĩnh vực đời sống xã hội bên dưới). Nội dung các luật cũng có nhiều thay đổi từ các luật có tính chất khung, hay luật ống, hay các quy định còn chung chung chứa đựng mục tiêu, yêu cầu, chính sách… dần sang các luật quy định cụ thể trên các lĩnh vực áp dụng ngay trong đời sống thực tiễn quản lý, những vấn đề “chưa chín” chưa thể ban hành cứng bằng luật thì ủy quyền lập pháp xử lý… Quy trình xây dựng luật cũng được sửa đổi, bổ sung làm rõ thời gian và trách nhiệm của các cơ quan tham gia xây dựng luật. Kỹ thuật lập pháp được nâng cao bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan trong tiến trình xây dựng luật; hình thành quy trình “sản xuất luật” trong dây chuyền mà “công xưởng” là Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội và hạt nhân là đại biểu Quốc hội; góp phần đưa công tác lập pháp dần vào nề nếp, hiệu quả, đáp ứng đòi hỏi giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Bài 2: Sự hình thành và vận động của hệ thống pháp luật ảnh 3

Nhìn nhận về sự hoàn thiện hệ thống pháp luật 30 năm qua, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã khẳng định “Thực tiễn đổi mới đất nước hơn 30 năm qua đã khẳng định sự đúng đắn về tầm nhìn và tư duy chiến lược của Đảng và Nhà nước ta trong việc xác định mục tiêu, các chủ trương, định hướng lớn và giải pháp cơ bản trong cải cách thể chế. Quốc hội đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ lập pháp của mình, tạo cơ sở pháp lý và động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, làm thay đổi diện mạo, đưa đất nước vượt ra khỏi tình trạng đói nghèo, chậm phát triển, trở thành một quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình. Chúng ta đã có một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, cân đối giữa các lĩnh vực” (2).

Quốc hội Khóa XIV tiếp tục nâng cao chất lượng lập pháp, đi sâu sửa đổi và ban hành các đạo luật trên các lĩnh vực cụ thể điều chỉnh tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương tới địa phương, các đạo luật chuyên nghành thích ứng với giai đoạn cách mạng công nghiệp 4.0 và yêu cầu mới trong phát triển đất nước và quan hệ quốc tế đặt ra. 

----------------------- 

(1) Trích bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị học tập cán bộ ngành Tư pháp, năm 1950.

(2) Bài viết của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân về vai trò của Quốc hội Việt Nam trong cải cách thể chế, đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập trong thời kỳ phát triển mới.

Tài liệu tham khảo:

Hiến pháp 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam.

- 50 năm Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946 - 1996).

- 60 năm Quốc hội Việt Nam (1946- 2006)

- 70 năm Quốc hội Việt Nam (1946 - 2016)

- Cơ  sở dữ liệu hồ sơ, tài liệu lưu trữ của Quốc hội

- Tuyển tập những bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật (Nhà xuất bản Pháp lý).

Lập pháp

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên họp
Quốc hội và Cử tri

Tháo gỡ vướng mắc, tạo sự thông thoáng, năng động cho doanh nghiệp

Cho ý kiến với dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp tại Phiên họp thứ 44, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị, cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện dự thảo Luật, bảo đảm các quy định sẽ giải quyết, tháo gỡ được các khó khăn, vướng mắc hiện nay; bao quát những vấn đề mới, bảo đảm yêu cầu phát triển kinh tế tư nhân trong mối quan hệ với đầu tư vốn của nhà nước và các yêu cầu trong tình hình mới.

Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Quốc hội và Cử tri

Tạo cơ sở pháp lý toàn diện phát triển bền vững ứng dụng năng lượng nguyên tử

Cho ý kiến về dự án Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi), các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị tiếp tục rà soát, đối chiếu các quy định của dự thảo Luật với các luật có liên quan để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất; đồng thời, rà soát, tham chiếu, bảo đảm tương thích với điều ước quốc tế về năng lượng nguyên tử mà Việt Nam là thành viên, nhằm xây dựng cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện cho phát triển bền vững ứng dụng năng lượng nguyên tử.

Ảnh minh họa
Xây dựng luật

Nên luật hóa nghĩa vụ chuyển giao công nghệ với hợp đồng điện hạt nhân

PGS.TS. Vương Hữu Tấn - Nguyên Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam

Dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) nên bổ sung một điều quy định về phát triển điện hạt nhân, trong đó tuyên bố chính sách dài hạn, bền vững của quốc gia về phát triển điện hạt nhân với mục tiêu phải chiếm một tỷ lệ hợp lý trong cán cân cung cấp điện năng và chúng ta có khả năng làm chủ, phát triển công nghệ để vận hành an toàn, khai thác hiệu quả. Đồng thời, luật hóa nghĩa vụ chuyển giao công nghệ đối với hợp đồng điện hạt nhân.

Tổng Biên tập Báo Nhân dân Lê Quốc Minh
Lập pháp

Sửa đổi Luật Chứng khoán, tạo điều kiện cho start-up công nghệ huy động vốn

Nhấn mạnh Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã đặt ra yêu cầu đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, khuyến khích đổi mới sáng tạo, loại bỏ tư duy “không quản được thì cấm”, Viện trưởng Viện IDS Trần Văn đề nghị cần sớm xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán, nghiên cứu dành riêng một chương về điều kiện cho các start-up công nghệ có thể huy động vốn trên thị trường.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi chủ trì phiên họp phát biểu
Diễn đàn Quốc hội

Cần chính sách đủ mạnh để khuyến khích phục hồi doanh nghiệp

Dự án Luật Phá sản (sửa đổi) dự kiến sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ Chín tới, trong đó có một điểm mới nổi bật là bổ sung quy định về phục hồi doanh nghiệp trước khi phá sản. Tại phiên họp mở rộng của Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính thẩm tra dự án Luật này, các đại biểu đề nghị, cần rà soát, nghiên cứu để có khung pháp lý, chính sách đủ mạnh nhằm khuyến khích thực hiện phục hồi doanh nghiệp.

Xem xét tăng thời hạn của giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất hóa chất
Quốc hội và Cử tri

Xem xét tăng thời hạn của giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất hóa chất

Quan tâm đến thời hạn của giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất hóa chất quy định tại dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi), các đại biểu Quốc hội tham dự Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 7 đề nghị tăng thời hạn của giấy chứng nhận là trên 5 năm. Bởi, thời hạn trên là quá ngắn, gây khó khăn cho các tổ chức, cá nhân sản xuất hóa chất có điều kiện.

ĐBQH Nguyễn Trường Giang (Đắk Nông)
Quốc hội và Cử tri

Cân nhắc tăng thuế đối với xe ô tô pick - up chở hàng cabin kép theo lộ trình

Lưu ý nếu quy định tăng thuế cao đối với xe ô tô pick - up chở hàng cabin kép ngay trong một lần như dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) sẽ gây tác động tới tâm lý khách hàng, làm giảm lượng tiêu thụ xe, một số đại biểu Quốc hội đề nghị cân nhắc quy định lộ trình tăng thuế trong vòng 3 năm, từ năm 2027 - 2030, mức tăng thêm 3%/năm tương đương với việc chia đều mức tăng 9% trong 3 năm, áp dụng từ năm 2027.

Thường trực Ủy ban Kinh tế họp mở rộng thẩm tra dự án Luật Phá sản (sửa đổi)
Chính trị

Gỡ điểm nghẽn trong thực hiện phá sản

Sáng 27.3, tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi, Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính họp mở rộng thẩm tra dự án Luật Phá sản (sửa đổi).

Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương điều hành phiên thảo luận
Quốc hội và Cử tri

Tăng cường quyền kiểm soát của người dân đối với dữ liệu cá nhân

Trong kỷ nguyên số, dữ liệu cá nhân được coi là tài sản phi truyền thống và có liên quan chặt chẽ tới quyền con người, quyền công dân, an toàn, an ninh mạng, an ninh thông tin, an ninh dữ liệu, công nghệ thông tin… Thảo luận về dự án Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, các đại biểu Quốc hội đề nghị, dự thảo Luật cần tăng cường quyền kiểm soát của người dân đối với dữ liệu cá nhân và quy định chế tài có tính răn đe cao đối với những hành vi xâm phạm.

ĐBQH Nguyễn Trường Giang (Đăk-Nông) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Quốc hội và Cử tri

Nghiên cứu kỹ lưỡng chính sách thuế liên quan đến phát triển khoa học, công nghệ

Cho ý kiến về dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi), các đại biểu Quốc hội cho rằng, việc ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp là rất quan trọng và ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư cũng như sự phát triển của doanh nghiệp, vì vậy, cần rà soát bảo đảm thể chế hóa đầy đủ và toàn diện các nội dung liên quan đến chính sách ưu đãi về thuế, trong đó có lĩnh vực khoa học, công nghệ.

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan điều hành thảo luận về dự án Luật Công nghiệp công nghệ số
Quốc hội và Cử tri

Đổi mới tư duy, tránh quản lý quá thận trọng

Thảo luận về dự án Luật Công nghiệp công nghệ số, tại Hội nghị đại biểu Quốc hội (ĐBQH) hoạt động chuyên trách lần thứ 7, một số ĐBQH cho rằng, dự thảo Luật cần cụ thể hóa đầy đủ Nghị quyết số 57 – NQ/TW của Bộ Chính trị, nhất là yêu cầu đổi mới tư duy quản lý, tránh tư duy "không quản được thì cấm", mở đường cho công nghệ mới qua cơ chế thử nghiệm có kiểm soát. Bởi, nếu quản lý quá thận trọng sẽ kìm hãm đổi mới sáng tạo, khiến doanh nghiệp e ngại thử nghiệm công nghệ mới tại nước ta.

Đại biểu Quốc hội Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) phát biểu. Ảnh: Hồ Long
Chính trị

Cần có chế tài xử lý khi doanh nghiệp không báo cáo hàng năm

Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) quy định, trong thời hạn 5 năm kể từ ngày hóa chất mới được đăng ký, hằng năm, tổ chức, cá nhân có hoạt động hóa chất liên quan đến hóa chất mới phải báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quá trình hoạt động với hóa chất mới. Do đó, đại biểu Quốc hội Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) đề nghị, cần bổ sung vào dự thảo Luật quy định về việc giao Chính phủ quy định chế tài xử lý với trường hợp không báo cáo hàng năm.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh phát biểu
Chính trị

Đánh giá kỹ lưỡng câu chuyện dạy thêm, học thêm

Tại Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 7, các ý kiến đề nghị tiếp tục nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng câu chuyện dạy thêm, học thêm, đặc biệt là triển khai Thông tư số 29/2024/TT-BGDĐT quy định về dạy thêm, học thêm để quy định nội dung này trong dự thảo Luật Nhà giáo.

ĐBQH Trần Văn Khải (Hà Nam) phát biểu
Chính trị

Biến chính sách việc làm thành lợi thế cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số

Thảo luận về dự án Luật Việc làm (sửa đổi) chiều nay, 25.3, các đại biểu Quốc hội cho rằng, việc sửa đổi Luật Việc làm lần này là cơ hội vàng để thể chế hoá các định hướng chiến lược của Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, biến chính sách việc làm thành lợi thế cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu
Lập pháp

Cần cơ chế, chính sách vượt trội khuyến khích đầu tư phát triển đường sắt

Cho ý kiến với dự án Luật Đường sắt (sửa đổi) tại Phiên họp thứ 43 vừa qua, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị, các chính sách về phát triển, ưu đãi, hỗ trợ trong hoạt động đường sắt phải thể chế hóa tối đa nội dung Kết luận số 49-KL/TW của Bộ Chính trị, nhất là về phân bổ ngân sách, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, hỗ trợ địa phương phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn yêu cầu sửa đổi Luật Đường sắt phải tập trung vào các chính sách đột phá mạnh mẽ, phát triển bứt phá
Chính trị

Phát triển đường sắt với tư duy vượt trội, tầm nhìn dài hạn

“Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, chúng ta mới có đoàn tàu Thống Nhất, bây giờ chuẩn bị kỷ niệm 50 năm rồi đoàn tàu Thống Nhất vẫn không có gì thay đổi về vận tốc, vận tải, có chăng chỉ là thay đổi kết cấu phòng ốc, điều kiện phương tiện, còn vận tốc vẫn y như cách đây 50 năm”.