Văn hóa Việt Nam chính là Chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Điều cấp bách lớn nhất hiện nay, qua gần 78 năm, đặc biệt sau gần 40 năm Đổi mới, nhiệm vụ trung tâm sắp tới, thực hiện mục tiêu Việt Nam hùng cường, chúng ta rất cần kiến tạo, phát triển triết lý của một nền văn hóa phát triển mạnh mẽ và bền vững, với khát vọng hùng cường.
Việt Nam đổi mới XHCN. Mà, bản chất của đổi mới là độc, sáng tạo, chính là văn hóa. Triết lý đó thường và phải bắt đầu từ chỉnh đốn lại tư duy, tiếp tục đổi mới tư duy về văn hóa. Cần phải thấu triệt rằng, văn hóa là toàn bộ cuộc sống xã hội của chúng ta, là định hướng phát triển xã hội của chúng ta, là động lực phát triển văn hóa của chúng ta ở một trình độ mới. Xét cho cùng cũng là mục tiêu phát triển dân tộc chúng ta. Bởi như K.Marx nói, chủ nghĩa cộng sản chính là chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị, tức là văn hóa.
Chúng ta bắt đầu từ văn hóa đi xuyên qua kinh tế thị trường đến văn hóa ở một tầm mức cao hơn. Kỳ thực, dân tộc Việt Nam bắt đầu đi từ văn hóa, không phải chỉ đi từ kinh tế. Kinh tế thị trường là công cụ. Nhà nước pháp quyền XHCN là công cụ của Nhân dân để đi đến văn hóa cao hơn là Chủ nghĩa xã hội. Chúng ta lấy văn hóa để phát triển kinh tế, phát triển chính trị... Vì tư duy, quyết sách chính trị hay kinh tế chính là văn hóa. Đường lối chính trị chính là văn hóa. Kinh tế là văn hóa. Bao trùm hết thảy, Chủ nghĩa xã hội là văn hóa. Văn hóa ở đây bao hàm cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Văn hóa là cái gì rất khó nắm bắt nhưng là hiện hữu trong đời sống xã hội hàng ngày. Nhưng, "văn hóa còn thì dân tộc còn" - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xác tín như vậy!
Nền văn hóa Việt Nam bản sắc, khác với tất cả các nền văn hóa khác, thích ứng với mọi thay đổi - đó là nền văn hóa trong thời kỳ đổi mới và hội nhập cần hướng tới và kiên quyết xây dựng. Chỉ có như thế, dân tộc mới đứng vững, cho dù sóng gió của cuộc hội nhập thế giới có thách thức “mất, còn” đối với dân tộc thế nào, cho dù những đợt sóng của cuộc “động đất lịch sử” khi các chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, những cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu những năm 1998, 2008 có dập vùi đe dọa “sinh, tử” tới đâu. Ba thập kỷ qua, Đất nước đứng vững và phát triển cũng một phần vì đó và nhờ đó.
Trong cuộc cạnh tranh toàn cầu hiện nay, phải và chỉ trở thành một quốc gia hùng cường trong tầm nhìn năm 2045, đất nước mới thực sự “hùng cứ một phương” bền vững. Con người Việt Nam mang khí phách độc lập tự do và quyền tự quyết dân tộc bất khả xâm phạm càng chủ động nâng cao khả năng hợp tác bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau đối với bất cứ quốc gia, dân tộc nào, ở bất cứ nơi đâu trên mặt địa cầu và ở bất cứ lúc nào, xứng đáng mang tầm vóc nhân văn Việt Nam.
Không có văn hóa Việt Nam dân tộc và hiện đại chúng ta sẽ không có gì cả, càng không thể nói tới công việc đổi mới toàn diện, đồng bộ từ thể chế chính trị, kinh tế, xã hội tới con người hay bất cứ phương diện nào khác, ngang tầm văn hóa, như mong muốn!
Trong phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa đạo đức Việt Nam đã và đang trở nên nóng bỏng. Thiếu nó sẽ không còn bản sắc và chủ nghĩa nhân văn Việt Nam nữa và lập tức sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh tế vị kinh tế, tiền vì tiền. Khi đó sẽ không còn công việc kiến tạo thể chế hay phát triển con người một cách chân chính và khoa học, vì quốc gia dân tộc nữa. Chính trị lúc này là kinh tế nhưng chính trị lúc này, hơn bao giờ hết, cũng chính là đạo đức.
Khi một môi trường phát triển phi đạo đức thì chính đó là môi trường phi chính trị, phi kinh tế, phi văn hóa và rốt cuộc phải đối mặt với sự băng hoại ngay từ nền móng tinh thần xã hội đã đành mà bạn bè quốc tế cũng xa lánh, ngoảnh mặt. Kinh nghiệm cho thấy, càng phát triển kinh tế thị trường, càng hội nhập quốc tế, trực tiếp là hội nhập kinh tế, chúng ta càng cần một hệ giá trị đạo đức Việt Nam - gồm đạo đức chính trị, đạo đức kinh tế… - những nhân tố làm nên hệ văn hóa Việt Nam - văn hóa chính trị, văn hóa kinh tế… thấm đẫm pháp quyền và nhân văn - những “quyền lực mềm” của chính kinh tế, của chính chính trị, bảo đảm phát triển kinh tế, chính trị vững bền; và đến lượt chúng, sẽ trở thành lực lượng kinh tế hùng mạnh, lực lượng chính trị to lớn trên con đường phát triển phát triển mạnh mẽ và bền vững.
Nếu không vun đắp, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam cao cả về tầm nhìn, uyên bác về trí tuệ, cao quý về nhân văn, một nền đạo đức Việt Nam mà mỗi người, trước hết những người giữ trọng trách quốc gia, cao thượng về nhân cách, bảo trọng về liêm sỉ, quốc sỉ, luôn khắc sâu trong tâm khảm mình tình yêu thương đồng bào, có trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân loại thì chắc chắn chúng ta khó có thể nói tới một Việt Nam phát triển phồn vinh, pháp quyền và nhân văn một cách bền vững.
Văn hóa phải thực sự trở thành rường cột, linh hồn trong toàn bộ sự phát triển của đất nước từ chính trị, kinh tế, xã hội tới ngoại giao, quốc phòng, an ninh, môi trường. Đặc biệt trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, văn hóa phải trở thành kinh tế, văn hóa phải trở thành chính trị, văn hóa phải trở thành triết lý giữ nước, triết lý nhân lên sức mạnh dân tộc phát triển đất nước hùng cường.
Càng hội nhập càng phải độc lập, trong đó độc lập về văn hóa hết sức quan trọng, hết sức căn bản. Có độc lập mới thực sự hội nhập đúng và hiệu quả, mới chủ động tiếp thu và đủ sức thâu hóa tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa chính mình. Một dân tộc đánh mất văn hóa của mình thì không còn dân tộc nữa. Dân tộc Việt Nam muốn tiếp tục đi xa và phát triển ngang tầm cùng các dân tộc tiến bộ khác trên thế giới thì hãy bắt đầu phải đứng vững đôi chân trên nền tảng văn hóa của chính mình đồng hành cùng và trong văn hóa nhân loại.
Phát triển văn hóa, xây dựng con người - mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho chúng ta một bài học lớn, khi Người khẳng định: "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Đó là chiều sâu của văn hóa Việt Nam. Vì thế, trong ba thập niên tới, vị thế trong 25 năm tới, vào năm 2045, trước mắt là năm 2030, với công cuộc không ngừng đổi mới, sáng tạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự chủ, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, trở thành một nước công nghiệp hiện đại và phát triển, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh..., Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh: “… Chúng ta một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử)(2).
Dưới góc nhìn phát triển, đó là tư tưởng lớn về văn hóa.
Đó không chỉ là một triết lý chính trị, triết lý xã hội, mà còn là triết lý nhân sinh, triết lý về phát triển con người, xã hội và môi trường sinh thái thấm đẫm văn hóa trên con đường phát triển nhanh, mạnh, bền vững và nhân văn, mà mỗi con người là một nhân cách văn hóa. Đó chính là thước đo sự tiến bộ xã hội văn minh của một Việt Nam truyền thống và hiện đại, hài hòa và khoan dung, dân chủ và kỷ cương, pháp quyền và công lý, thủy chung và minh bạch, bản sắc và hội nhập, độc lập và hòa mục, bền vững và nhân văn... - những phẩm chất quan trọng mà chúng ta cần hướng tới, để xây dựng đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là con đường phát triển XHCN tất yếu và bản sắc của Dân tộc, trên nền móng văn hóa, phù hợp với sự vận động của thế giới.
Kinh nghiệm của thế giới hai thế kỷ qua cho thấy, thế giới càng toàn cầu hóa, thì vấn đề dân tộc đối với mỗi quốc gia càng nổi lên như một mệnh đề cấp thiết. Việc xử lý vấn đề dân tộc vì sự phát triển toàn cầu, chủ động tiên lượng và nắm lấy tổng thể sự vận động toàn cầu để giải quyết cụ thể, thiết thực những công việc của dân tộc đã và đang trở thành mệnh lệnh hành động song trùng một cách tự nhiên hiện nay.
Trên thế giới từ xưa tới nay, không có một dân tộc nào sau 1.000 năm lệ thuộc mà dân tộc đó vẫn tồn tại và phát triển. Thậm chí, chỉ vài ba trăm năm là họ bị đồng hóa bởi văn hóa ngoại xâm. Nhưng dân tộc Việt Nam từ đất nước Văn Lang xuyên suốt tận Đại Việt kể hơn 1.000 năm, vẫn không thể bị đồng hóa. Chưa thấy có dân tộc nào trên thế giới có ngày Giỗ Tổ như Dân tộc Việt Nam. Sức sống bất diệt của dân tộc Việt Nam tất cả là ở “viên linh đơn” văn hóa Việt Nam. Chính nhờ văn hóa còn thì dân tộc còn và đất nước Việt Nam còn. Đó là sức sống kỳ diệu của văn hóa Việt Nam. Đó là bản sắc Việt Nam kết tinh và phát triển ở văn hóa và bằng văn hóa.
Không thể hình dung được, nếu không có một nền văn hóa như chúng ta đã và đang có thì không có một quốc gia - dân tộc Việt Nam như hiện nay.
Định vị chính trị chiến lược đất nước hiện nay, hơn lúc nào hết, là xử lý hài hòa, mềm dẻo, quyền biến nhưng kiên quyết, rõ ràng và dứt khoát điều tối giản đó! Nói khái quát, đó là danh hiệu Việt Nam, bắt đầu từ chỗ đứng và sự phát triển nhanh, mạnh nhưng bền vững và nhân văn trong thế giới. Đó là sự phát triển mang tầm chiến lược con đường XHCN Việt Nam.
Không bản sắc văn hóa, dân tộc nhất định bị hòa tan.
Tổng hòa toàn bộ những vấn đề đó, Tổng Bí thư góp phần làm sáng rõ tư duy lý luận chiến lược của Đảng ta về văn hóa: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa của văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người... mà không gì khác, chính con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; đến lượt nó, phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới(3)).
Toàn bộ những điều đó góp phần làm nên tầm nhìn chiến lược, bản lĩnh chính trị, sức mạnh hiện thực và khí phách Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trực tiếp tạo nên xung lực mới trong lộ trình thực thi những khâu đột phá chiến lược, làm rung động, chuyển biến toàn cục, cụ thể và hiệu quả công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ hiện nay và tương lai.
_____