Tuy nhiên trong y khoa, nicotine vẫn được ứng dụng trong điều trị các bệnh liên quan đến thần kinh và được các công ty dược sử dụng để sản xuất các sản phẩm cai thuốc lá.
Khai thácứng dụng của nicotine trong y khoa
Có nhiều nghiên cứu chỉ ra vai trò tích cực của nicotine trong điều trị bệnh Parkinson và Alzheimer, hai bệnh tiêu biểu gây ra suy giảm trí nhớ. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ghi nhận tỷ lệ mắc bệnh Parkison tăng gấp đôi trong 25 năm qua , còn tỷ lệ bệnh nhân mắc Alzheimer chiếm hơn 60% tại các quốc gia có mức sống trung bình và thấp.
Kết quả nghiên cứu của Parkison’s UK chỉ ra rằng, tỷ lệ người từng hút thuốc và đang hút thuốc ít có khả năng gặp các triệu chứng trầm trọng hơn từ bệnh Parkinson lần lượt là 20% và 50%. Nghiên cứu chỉ ra nicotine có khả năng ngăn các tế bào não khỏi những tổn thương, cải thiện các triệu chứng như rối loạn vận động (hay còn gọi là vận động không có chủ ý) hay rối loạn trí nhớ.
TS. Paul Newhouse, Giám đốc Trung tâm Y học nhận thức, Đại học Vanderbilt (Mỹ) đã thực hiện nghiên cứu MIND và kết quả cho thấy nicotine là chất hỗ trợ giúp kích thích các cơ (tương tự acelcholine) khi bị thoái hóa do bệnh Alzheimer gây ra.
Ngoài ra, Mỹ còn thực hiện một thử nghiệm ngắn cho thấy nicotine có thể giúp người trầm cảm trở nên tập trung hơn. Theo các chuyên gia, nicotine có tác dụng hiệu quả như giả dược. Nhờ cơ chế thẩm thấu qua da, chất này giúp giảm các triệu chứng về trầm cảm và tăng thời gian ngủ của người mắc bệnh.
Bên cạnh giải pháp điều trị các bệnh về thần kinh nêu trên, nicotine còn là thành phần chính trong các sản phẩm cai thuốc lá (liệu pháp thay thế nicotine – NRT) như xịt họng, miếng dán, kẹo ngậm nicotine... đã được WHO công nhận và Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) cho phép lưu hành.
Cung cấp nguồn “nicotine sạch” cho người tiêu dùng
Theo các chuyên gia, trong trường hợp mọi nỗ lực cai bỏ không thành công, cần cho người hút thuốc các giải pháp giảm tác hại thông qua những nguồn cung cấp “nicotine sạch” với dược phẩm chứa nicotine hoặc các sản phẩm thuốc lá không khói.
GS.TS Karl Fagerstrom (Chủ tịch Fagerstrom Consulting) cho rằng, người hút thuốc có thể tiếp cận nicotine “sạch” thay vì nicotine được tạo ra từ quá trình đốt cháy. Đây chính là nguyên lý cơ bản cho việc giảm tác hại của các sản phẩm thuốc lá mới (TLM).
Các quốc gia phát triển có tỷ lệ sử dụng TLM cao như Thụy Điển, Na Uy, Nhật Bản, Anh, New Zealand… đều đã ghi nhận nhiều tác động tích cực của giải pháp này đối với sức khỏe cộng đồng lẫn chính sách quản lý.
Nghiên cứu CEASEFIRE mới nhất năm 2022 do Đại học Catania (Ý) thực hiện đã cho thấy tỷ lệ cai được thuốc lá điếu nhờ chuyển sang sử dụng hoặc TLLN lần lượt là trên 30% và 39%. Vào tuần 12, tỷ lệ cai thuốc lá điếu liên tục trong 7 ngày đối với người dùng TLLN và TLĐT lần lượt đạt gần 55% và trên 41%.
Trước đó, tại Anh, theo nghiên cứu 2017 của Tạp chí khoa học Addiction có khoảng 50.000-70.000 người hút thuốc đã cai hẳn thuốc lá điếu sau khi chuyển sang TLĐT.
Hiện nay, Chính phủ Anh đang kỳ vọng trở thành “Quốc gia không khói thuốc” vào năm 2030 với tỷ lệ hút thuốc lá điếu dưới 5%. Qua đó, Chính phủ sẽ cung cấp miễn phí TLĐT cùng với dịch vụ tư vấn cho 1 triệu người hút thuốc để giúp họ cai thuốc lá điếu.
Chia sẻ về sự cần thiết của việc giảm tác hại cho người hút thuốc tại Đại hội Tim mạch Đông Nam Á 2022, Trưởng khoa Nội tổng quát và Y học gia đình, Bệnh viện FV, ThS.BS Lê Đình Phương đã nhấn mạnh: “Bỏ thuốc lá là tốt nhất nhưng khi mọi nỗ lực thất bại, tôi ủng hộ giải pháp dung hòa là giảm tác hại. Thay vì hút một điếu thuốc lá với tất cả chất độc hại từ việc đốt cháy thì để họ hấp thụ mỗi nicotine thôi và giảm những độc tính khác do không đốt cháy; đồng thời việc gây hại do hút thuốc thụ động cũng được giảm thiểu”.