Tài chính
Mục 6, Điều 1 của Hiến pháp Mỹ quy định lương của các nghị sỹ “được quy định cụ thể tại luật và được Bộ Tài chính chi trả”. Các sửa đổi, bổ sung được quy định tại Luật Cải tổ về mặt đạo đức năm 1989 và Tu chính án 27 của Hiến pháp. Trừ các lãnh đạo Thượng viện, Hạ viện và lãnh đạo các phe đa số ở lưỡng viện được hưởng mức lương cao hơn, tất cả các nghị sỹ đều được hưởng mức lương 174.000 USD/năm. Chủ tịch Hạ viện nhận 223.500 USD/năm, lãnh đạo các đảng chính trị (phe đa số và thiểu số) nhận lương 193.400 USD/năm. Mức lương này không thay đổi kể từ năm 2009, chỉ được trả trong thời gian nghị sỹ làm việc và không có khoản lương hay phụ cấp nào khác, kể cả đối với chi phí sinh hoạt cho nghị sỹ trong thời gian ở Washington D.C. Ngoài ra, các nghị sỹ được hưởng các khoản phụ cấp khác ngoài lương không quá 27.495 USD/năm (thời điểm năm 2016). Các nghị sỹ cũng có thể nhận được các khoản hoàn thuế tối đa 3.000 USD/năm.
![]() Văn phòng của thượng nghị sĩ Dick Durbin tại Washington D.C |
Tuy nhiên, bên cạnh lương, các nghị sỹ còn nhận được kinh phí khác do ngân sách quốc gia cấp. Đối với các hạ nghị sỹ, khoản kinh phí này được gọi là kinh phí để thực hiện công việc chính thức và công việc đại diện cho cử tri (the Member’s Representional Allowances - MRA). Tổng chi phí cho mỗi hạ nghị sỹ giao động từ 1.251.177 - 1.433.709 USD/năm, với mức trung bình 1.315.523 USD/hạ nghị sỹ/năm.
Khoản kinh phí này thường chia làm 3 khoản bao gồm:
Chi phí thuê nhân viên. Tất cả các nghị sỹ đều nhận được khoản chi bằng nhau là 996.471 USD/năm (năm 2016).
Chi phí thuê văn phòng làm việc. Chi phí này phụ thuộc vào khoảng cách địa lý giữa khu vực bầu cử của nghị sỹ và Washington D.C cũng như giá thuê văn phòng tại khu vực bầu cử.
Chi phí thư tín. Chi phí này được dùng để xử lý các thư từ tại khu vực bầu cử và phụ thuộc vào số địa chỉ thư tín tại khu vực bầu cử.
Các khoản chi này được phân bổ thành một khoản kinh phí chung và các hạ nghị sỹ có thể tự bố trí kinh phí cho mỗi hạng mục chi khác nhau. Ví dụ, hạ nghị sỹ có thể tăng chi phí dành cho việc đi lại và giảm chi phí thuê văn phòng làm việc nếu văn phòng của hạ nghị sỹ ở quá xa và địa bàn rộng. MRA được phân bổ từ ngày 3.1 năm nay đến 2.1 năm sau đó. Các khoản kinh phí này được Ủy ban Quản lý hành chính của Hạ viện quản lý.
Tương tự các hạ nghị sỹ, các thượng nghị sỹ nhận được kinh phí được gọi là kinh phí dành cho nhân sự và văn phòng (Senator’s Official Personel and Office Expense Account - SOPOEA). Khoản kinh phí này được phân bổ theo các năm tài khóa. Tổng chi phí hoạt động cá nhân sơ bộ của thượng nghị sỹ khoảng từ 3.192.760 - 5.052.317 USD/nghị sỹ/năm; trung bình là 3.467.971 USD/nghị sỹ/năm.
SOPOEA cũng được chia làm 3 hạng mục chính, bao gồm:
Chi phí nhân viên giúp việc hành chính và thư ký là 2.587.374 USD/nghị sỹ/năm (ở các bang có ít hơn 5 triệu dân) đến 4.112.084 USD/nghị sỹ/năm (ở các bang có từ 28 triệu dân trở lên);
Chi phí thuê chuyên gia tư vấn lập pháp, áp dụng chung cho các thượng nghị sỹ với mức là 482.958 USD/nghị sỹ/ năm;
Và chi phí hành chính (văn phòng, đi lại, thư tín) giao động từ 122.428 - 457.275 USD/ nghị sỹ/năm, phụ thuộc vào dân số, khoảng cách giữa Wasington D.C và khu vực bầu cử, số địa chỉ thư tín của bang (số liệu tính đến năm 2018).
Tương tự như MRA, SOPOEA cũng được phân bổ làm một khoản kinh phí chung và các nghị sỹ có thể lựa chọn sử dụng kinh phí ở mỗi hạng mục khác nhau. Chỉ có giới hạn ở kinh phí thư tín ở mức 50.000 USD/năm. Tất cả các khoản kinh phí cấp cho các nghị sỹ không được phép dùng cho mục đích cá nhân, kể cả dùng để vận động tranh cử.
Văn phòng làm việc
Để thực hiện công việc của mình, các nghị sỹ được bố trí các văn phòng làm việc tại tiểu bang của mình và tại Washington D.C. Mỗi nghị sỹ được ưu tiên sử dụng một văn phòng làm việc tại các tòa nhà liên bang đặt tại các bang. Nếu phòng làm việc tại các tòa nhà liên bang không có đủ chỗ, các nghị sỹ có thể thuê phòng làm việc tại các tòa nhà do tư nhân sở hữu. Giá thuê tại các tòa nhà tư nhân không được phép cao hơn mức giá do Cơ quan Quản lý dịch vụ tổng hợp (General Services Administration - GSA) quy định. Đối với các thượng nghị sỹ đại diện cho các bang dưới 3 triệu dân, tổng diện tích văn phòng làm việc của thượng nghị sỹ là 5.000 feet vuông (tương đương 464m2). Đối với các bang có dân số trên 17 triệu dân, tổng diện tích của văn phòng làm việc có thể lên tới 8.200 feet vuông (tương đương 762m2). Mỗi thượng nghị sỹ có thể thuê nhiều văn phòng làm việc khác nhau. Ngoài các văn phòng làm việc cố định, các nghị sỹ còn có thể thuê các văn phòng làm việc tạm thời để dễ dàng tiếp xúc cử tri ở nhiều địa bàn khác nhau.
Tại văn phòng làm việc ở Washington D.C, thượng nghị sỹ được cung cấp nội thất theo lựa chọn từ một danh sách do cơ quan Kiến trúc sư Quốc hội ban hành. Còn tại văn phòng làm việc ở bang, các thượng nghị sỹ được cấp 40.000 USD tiền mua nội thất và trang thiết bị của phòng làm việc đối với tổng diện tích phòng làm việc không quá 5.000 feet vuông. Số tiền hỗ trợ này được tăng thêm đối với các phòng làm việc rộng hơn (tăng thêm 1.000 USD đối với mỗi 200 feet vuông diện tích phòng làm việc).