Việt Nam đã đạt được những thành quả rõ rệt về sức khỏe, đặc biệt là nâng cao tuổi thọ của người dân. Tuy nhiên những thay đổi về nhân khẩu học, dịch tễ học và xã hội đặt ra thách thức đổi mới đối với ngành y tế. Việt Nam hiện có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới, điều này khiến gánh nặng bệnh tật không lây nhiễm ở Việt Nam tăng mạnh. Nhu cầu về nguồn lực để sàng lọc điều trị ung thư và các bệnh tim mạch cùng với các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, tiểu đường cũng tăng lên.
Ngoài gánh nặng bệnh tật đang thay đổi, Việt Nam phải đáp ứng nhu cầu của tầng lớp trung lưu đang tăng lên, có đòi hỏi cao hơn về chất lượng và hàm lượng công nghệ cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Vì vậy, ngành y tế phải đối mặt với bài toán cân đối giữa nhu cầu đầu tư và dư địa tài chính có sẵn để đáp ứng. Chính phủ đã xem nguồn lực tư nhân là rất quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn. Trong đó, Bộ Y tế và các bệnh viện có trách nhiệm huy động nguồn vốn từ khu vực tư nhân. Đây là một chính sách lớn nằm trong chương trình cải cách vĩ mô, tổng thể về y tế từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước nhằm khuyến khích, huy động mọi nguồn lực xã hội cho các dịch vụ công quan trọng.
Chính sách xã hội hóa y tế gồm 2 biện pháp chính nhằm tăng cường vai trò của khu vực tư nhân trong cung ứng dịch vụ y tế: phát triển các nhà cung ứng dịch vụ y tế tư nhân và nâng cao mức độ tự chủ về tài chính của các tổ chức sự nghiệp y tế, công lập. Chính sách này đã mang lại nhiều kết quả tích cực, làm thay đổi sâu sắc và toàn diện hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam nhờ kỹ thuật mới, hiện đại được áp dụng cho nâng cao chất lượng về chuyên môn, đưa trình độ y tế Việt Nam ngang tầm các nước trong khu vực. Bệnh phức tạp đã được điều trị tại Việt Nam với chi phí thấp hơn nhiều lần khi điều trị tại nước ngoài.
Tuy nhiên, chính sách xã hội hóa y tế cũng phát sinh những mặt trái, hạn chế. Đó là các hoạt động xã hội hóa thường tập trung vào lĩnh vực có khả năng mang lại nhiều doanh thu, dẫn đến tăng chi trả tiền túi của người bệnh. Đồng thời, chủ trương này chưa mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ cho người dân sống ở khu vực có điều kiện khó khăn hơn, những người không có khả năng chi trả cho dịch vụ y tế đắt tiền. Các bệnh viện trung ương, bệnh viện ở thành phố lớn cũng như người bệnh ở những bệnh viện này được hưởng lợi nhiều hơn so với những bệnh nhân nghèo ở nông thôn.
Bên cạnh đó, các dự án xã hội hóa thường tập trung vào dự án có quy mô nhỏ với thời gian hoàn vốn ngắn thay vì dự án quy mô lớn, đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài.
Vấn đề gây tranh cãi nhất hiện nay liên quan đến xã hội hóa y tế là việc tăng cường lắp đặt các thiết bị chẩn đoán công nghệ cao, mở rộng dịch vụ theo yêu cầu. Có tới hơn 62% liên doanh đã đầu tư các thiết bị chẩn đoán hình ảnh, thiết bị xét nghiệm, dấy lên quan ngại về việc lạm dụng các thiết bị chẩn đoán công nghệ cao, chi phí lớn. Một số dịch vụ chăm sóc không phù hợp trên góc độ y khoa nhưng được cung cấp theo yêu cầu của người bệnh như là bằng chứng của chất lượng cao. Việc cung cấp dịch vụ đắt tiền cho nhóm người bệnh có thu nhập trung bình hoặc cao gây quan ngại về sự công bằng và tính hiệu quả của các dịch vụ công cũng như nghi vấn về sự phù hợp của mô hình liên doanh chia sẻ lợi nhuận với các mục tiêu của chính sách xã hội hóa.
Việc quản lý chưa hiệu quả các đề án liên doanh cũng tạo ra một số thách thức, dấy lên quan ngại về tính minh bạch trong quá trình lựa chọn đối tác tư nhân, tính cạnh tranh trong đấu thầu tài sản và tính hiệu quả khi thẩm định kế hoạch tài chính. Khi vào hoạt động, liên doanh không phải tiến hành giám sát hiệu quả hoạt động hoặc thực hiện các quy trình kế toán chuẩn mực. Nhân viên bệnh viện góp một phần vốn đầu tư thiết bị và được hưởng lợi từ việc thu phí sử dụng các thiết bị đó. Do vậy có cơ sở để cho rằng điều này dẫn tới lạm dụng chỉ định các dịch vụ kỹ thuật. Chính vì vậy, Bộ Y tế đã nhiều lần phải điều chỉnh chính sách về liên doanh đầu tư thiết bị và dịch vụ theo cầu trong hệ thống công lập.
Để giảm thiểu hạn chế của chính sách xã hội hóa y tế, có 6 giải pháp. Thứ nhất, Chính phủ cần xây dựng các quy định và hướng dẫn liên quan đến những hình thức hợp tác công - tư (PPP) trong lĩnh vực y tế. Thứ hai, xây dựng và tổ chức các khóa đào tạo cho cán bộ quản lý dự án PPP trong ngành y tế; đồng thời, thúc đẩy và phổ biến các thực hành tốt về quản lý các dự án PPP. Thứ ba, xây dựng danh mục lĩnh vực được phép hợp tác PPP. Thứ tư, các cơ quan quản lý tham gia thẩm định, lựa chọn nhà đầu tư và đàm phán hợp đồng PPP thuộc lĩnh vực mình quản lý. Thứ năm, kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả dự án PPP trong lĩnh vực y tế. Thứ sáu, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dự án PPP, công khai, minh bạch các dự án để cơ quan chức năng và người dân theo dõi, giám sát.