Đáp ứng yêu cầu mở rộng đối tượng, bảo đảm tốt nhất quyền, lợi ích cho người dân
Dự thảo Luật đã đáp ứng yêu cầu cần thiết là mở rộng đối tượng, bảo đảm tốt nhất quyền, lợi ích cho người lao động đang làm việc và người hưởng lương hưu. Hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước cho người lao động tham gia BHXH tự nguyện và tăng thêm chế độ thai sản cho lao động nữ tham gia BHXH tự nguyện. Bổ sung quyền lợi ốm đau, thai sản cho lao động bán chuyên trách. Giảm thời gian tham gia BHXH xuống 15 năm. Đồng thời, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về BHXH, áp dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục, tạo sự công khai, minh bạch và thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Nhằm hoàn thiện dự thảo Luật, tôi đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu kỹ lưỡng, đề xuất sửa đổi các chính sách, bảo đảm thể chế hoá đầy đủ chủ trương của Đảng: "Sửa Luật lần này làm sao để BHXH thực sự trở thành trụ cột bền vững của an sinh - xã hội, bảo đảm quyền con người theo hiến pháp 2013".
Liên quan đếnĐiều 3, về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện, dự thảo Luật đã quy định chi tiết và bao phủ đầy đủ các đối tượng. Tuy nhiên, mục tiêu của Nghị quyết số 28-NQ/TW là mở rộng đối tương tham gia BHXH, tiến tới BHXH toàn dân do đó việc quy định đối tượng phải linh hoạt. Trước hết, phải quan tâm khuyến khích và có chính sách để 2 nhóm hộ kinh doanh, gồm hộ kinh doanh phải đăng ký hộ kinh doanh, và hộ không phải đăng ký hộ kinh doanh, trong đó, đặc thù của hộ không phải đăng ký kinh doanh là các hộ hoạt động nhỏ lẻ, không ổn định, có thu nhập thấp.
Theo số liệu thống kê, có khoảng trên 5 triệu hộ kinh doanh, trong đó có gần 2 triệu hộ có đăng ký kinh doanh. Theo quy định của Luật BHXH năm 2014 thì chủ hộ kinh doanh không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
Lần này, quan điểm bổ sung nhóm hộ có đăng ký kinh doanh là hợp lý, nhưng nên quy định tham gia BHXH bắt buộc theo hộ kinh doanh tương tự như bảo hiểm y tế hộ gia đình bắt buộc và nên có chính sách khuyến khích hỗ trợ như đã thực hiện bảo hiểm y tế hộ gia đình theo lũy tiến. Đồng thời, hỗ trợ nhóm hộ chưa đăng ký kinh doanh để họ cũng tham gia BHXH tự nguyện theo các thành viên của hộ kinh doanh và từng bước chuyển sang hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh và tham gia BHXH bắt buộc (lưu ý cả 2 nhóm hộ này đều bao gồm tất cả người lao động tham gia làm công ăn lương trong hộ kinh doanh). Đây là giải pháp rất quan trọng để đẩy nhanh độ bao phủ BHXH toàn dân.
Theo đó, quan điểm của tôi là, dự thảo Luật cần quy định lộ trình để tất cả lao động từ đủ 15 tuổi trở lên có tham gia lao động có thu nhập về tiền lương đều phải tham gia BHXH (bắt buộc hoặc tự nguyện) trên cơ sở quản trị nhân lực và thống kê đầy đủ lực lượng lao động trên thị trường. Từng bước chuyển dần thu BHXH qua thuế và công nghệ thông tin, như chương trình VSSID mà ngành BHXH đang thực hiện. Đồng thời, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm, áp dụng công nghệ thông tin, thực hiện BHXH số, đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng mức độ hài lòng, tạo minh bạch, công khai và thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Về căn cứ đóng BHXH tại Điều 30, Mục b, Khoản 1, dự thảo Luật, nên bỏ “các khoản bổ sung khác”, vì lâu nay quy định nhưng không thực hiện được và gây tranh cãi. Đề nghị nên quy định tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, là tiền lương tháng, bao gồm mức lương, phụ cấp lương trả thường xuyên, được hạch toán vào giá thành sản phẩm và trả ổn định trong mỗi kỳ trả lương (ít nhất bằng 70% tổng thu nhập tiền lương).
Về chế độ thai sản, theo tôi, chúng ta phải “hướng tới một hệ thống trợ cấp thai sản phổ cập tại Việt Nam”, mức hưởng chế độ thai sản phải tối thiểu bằng mức chuẩn nghèo, bảo đảm không có phụ nữ nào ở Việt Nam rơi vào cảnh nghèo đói vì có con. Nếu quy định như dự thảo Luật, là “người lao động tham gia BHXH tự nguyện (bao gồm cả lao động nữ và lao động nam) khi sinh con nếu đáp ứng đủ điều kiện (đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con) thì được hưởng trợ cấp bằng 2 triệu đồng cho một con” - mức này theo tôi là rất thấp, chưa thực sự hỗ trợ cho phụ nữ bảo vệ thai sản và không có ý nghĩa theo chế độ thai sản, vì thai sản là quỹ ngắn hạn thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ. Theo tiêu chuẩn quốc tế, phụ nữ cần được nghỉ thai sản ít nhất 14 tuần thì mức này chỉ tương đương 145.000 đồng/tuần, tức là khoảng 600.000 đồng/tháng, bằng 40% mức chuẩn nghèo khu vực nông thôn.
Thực tiễn thời gian qua, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ cho phụ nữ là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, cư trú tại các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn khi sinh con đúng chính sách dân số. Do đó, tôi đề xuất mức hưởng chế độ thai sản tối thiểu cho người lao động tham gia BHXH tự nguyện (bao gồm cả lao động nữ và lao động nam) là 1,5 triệu đồng/tháng (mức chuẩn nghèo nông thôn) trong 14 tuần (3,5 tháng) là phù hợp và vẫn giữ chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số. Chi phí hưởng chế độ thai sản do ngân sách nhà nước chi trả tại tầng 1 và có sự chia sẻ quỹ thai sản của chính sách BHXH, nhằm đạt được mục tiêu bao phủ toàn dân cho tất cả các bà mẹ sinh con tại Việt Nam, cần chi từ ngân sách nhà nước cho các chương trình trợ giúp xã hội khoảng 4.900 tỷ đồng/năm, tương đương 0,05% GDP cả nước năm 2022.
Hệ thống trợ cấp thai sản phổ cập tại Việt Nam có thể giảm gánh nặng tài chính từ việc đóng BHXH đối với các hộ gia đình không có khả năng đóng góp, góp phần tăng mức độ bảo vệ thai sản cho người lao động, đặc biệt là lao động nữ, qua đó tăng diện bao phủ của BHXH. Mục tiêu của trợ cấp gia đình/trợ cấp trẻ em là góp phần đảm bảo không một phụ nữ Việt Nam nào (hoặc gia đình) bị rơi vào tình trạng nghèo vì sinh con.
Giảm thời gian đóng BHXH xuống 15 năm, thậm chí 10 năm là phù hợp
Về việc ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa công tác thu, nộp BHXH, dự thảo Luật quy định giao Chính phủ: “Bổ sung quy định về việc ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa công tác thu, nộp BHXH”; theo tôi nội dung về ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý BHXH đã được thể hiện trong Luật BHXH 2014 và lộ trình đến năm 2020 phải hoàn tất, nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành. Điều này không nên giao Chính phủ, mà cần thiết quy định ngay trong Luật để bảo đảm tính khả thi.
Về giảm thời gian đóng BHXH xuống 15 năm, thậm chí 10 năm được hưởng lương hưu, theo tôi là phù hợp, rất tốt cho người lao động; nhưng thời gian tham gia ngắn chắc chắn là lương hưu thấp vì nguyên tắc của BHXH là đóng - hưởng. Mục tiêu BHXH toàn dân, nhưng giảm thời gian đóng không phải là dành cho lao động trẻ; mà chủ yếu là tạo cơ hội cho người cao tuổi (như nam 45 và nữ 47) và những người thay đổi phương thức làm việc, luân chuyển, hoặc làm việc gián đoạn có cơ hội tham gia vào hệ thống BHXH để có lương hưu khi về già.
Tuy nhiên, dự thảo Luật cần tính đến mức đóng và mức hưởng, nếu quy định như dự thảo, thì mức hưởng sẽ thấp hơn mức sống tối thiểu dẫn đến sức hấp dẫn thấp; cần có quy định cụ thể để người lao động thấy được tham gia BHXH là có thu nhập bảo đảm mức sống tối thiểu.