![]() |
Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan hiện nay được xem là những chính quyền hợp hiến điển hình ở Đông Á. Hai quốc gia và một vùng lãnh thổ này đều có hiến pháp thành văn và thực thi các quy tắc hiến pháp theo những tiêu chuẩn chung của chủ nghĩa hợp hiến tự do. Chỉ hơn nửa thế kỷ trước đây, các nước và vùng lãnh thổ này đều lâm vào các xung đột thuộc địa: Hàn Quốc và Đài Loan là thuộc địa của Nhật Bản. Nhưng khi chiến tranh kết thúc, ba hiến pháp hậu chiến lần lượt ra đời: Hiến pháp hậu chiến của Nhật Bản năm 1947, Hiến pháp Cộng hòa Triều Tiên (Hàn Quốc) năm 1948 và Hiến pháp của Trung Quốc Cộng hòa 1947 áp dụng cho Đài Loan đến tận ngày nay. Hiến pháp 1947 không phải là hiến pháp đầu tiên của Nhật Bản (trước đó đã có Hiến pháp Minh Trị), nhưng thường được xem là hiến pháp dân chủ đầu tiên của Nhật Bản. Hiến pháp 1947 của Nhật Bản từ khi được ban hành cho đến nay chưa từng được sửa đổi, mặc dù đã có nhiều lời kêu gọi sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp 1948 của Hàn Quốc được sửa đổi vào năm 1952 để củng cố chế độ độc tài tổng thống trong bối cảnh chiến tranh. Cho đến nay, Hàn Quốc đã trải qua 6 nền cộng hòa với 6 bản hiến pháp. Hiến pháp Trung Quốc Cộng hòa áp dụng cho Đài Loan được sửa đổi chính thức vào năm 1991 bằng việc bổ sung các điều khoản và sau đó được sửa đổi 6 lần nữa.
Viện luật Đông Nam Á thuộc Đại học Quốc gia Singapore đã chỉ ra một trong những đặc điểm của chủ nghĩa hợp hiến ở Đông Á là: “Việc xây dựng chính quyền hợp hiến cùng với một hệ thống pháp luật được tiến hành như một bộ phận tất yếu của tiến trình hiện đại hóa. Khi việc xây dựng một chính quyền hợp hiến được xem như là một phần hoặc thậm chí chỉ là một phương diện của một dự án thực dụng lớn hơn, hiến pháp có thể dễ trở thành công cụ cho những mục đích lớn hơn (thường là thực dụng). Hiến pháp sẽ không được xem cũng không được đối xử như là sự tự đồng thuận của nhân dân - điều có ý nghĩa bảo đảm các quyền và tự do của họ và giới hạn quyền lực của nhà nước. Thường phải mất nhiều năm, nếu không muốn nói là hàng thập kỷ, ở đây đã diễn ra quá trình tự do hóa và dân chủ hóa chế độ hiến pháp hữu danh vô thực để chuyển sang một nền dân chủ hợp hiến thực sự”.
Đối với trường hợp của Nhật Bản, Hiến pháp Minh Trị được ban hành năm 1889 được xem như có khuynh hướng rõ ràng nhằm củng cố tài sản, quyền lực và sự thịnh vượng của Nhật Hoàng. Người ta không thấy nhiều sự theo đuổi tự do của nhân dân được đề cập trong văn bản này. Hiến pháp mới của Nhật Bản được ban hành sau Thế chiến thứ Hai dưới áp lực của nước ngoài đã từ bỏ chế độ vương quyền, thực thi quản trị dân chủ và hòa bình.
Hiến pháp của Hàn Quốc có mục đích chính là tuyên bố độc lập và bảo vệ chủ quyền quốc gia sau thời thuộc Nhật. Sau Thế chiến thứ Hai, cả hiến pháp của Nam Hàn lẫn Bắc Hàn đều được ban hành với một lòng yêu nước sâu sắc và chống chủ nghĩa thực dân. Việc lập hiến cũng như việc xây dựng chính quyền hợp hiến được coi như một phương tiện để nhân dân được giải phóng khỏi thế lực thực dân (Nhật Bản). Khi mục đích của việc thảo hiến chủ yếu là xây dựng hình tượng về một quốc gia độc lập, người ta sẽ không quan tâm nhiều đến nội dung và chức năng của hiến pháp. Chỉ sau cuộc dân chủ hóa năm 1987, thì tinh thần thật sự của hiến pháp - sự tinh tuyển các quyết định của nhân dân nhằm bảo đảm quyền lợi của họ và giới hạn quyền lực chính trị - mới thực sự diễn ra ở Hàn Quốc.
Khi Đài Loan thuộc Nhật Bản, Hiến pháp Minh Trị được áp dụng đối với thuộc địa Đài Loan. Điều này minh chứng giá trị của hiến pháp như một công cụ để cai trị người dân. Sau khi Nhật đầu hàng cuối Thế chiến thứ Hai, Đài Loan nằm dưới quyền kiểm soát của Tưởng Giới Thạch. Chính quyền Tưởng chiếm đóng Đài Loan và đổi tên thành một tỉnh của Trung Quốc Cộng hòa. Trong khoảng thời gian này, một hội đồng lập hiến đã soạn thảo Hiến pháp Trung Quốc Cộng hòa và Đài Loan cũng được gửi đại diện tham gia. Tuy nhiên, cả người dân cho đến các đại biểu của Đài Loan đều không được thông báo những thông tin và thời gian của các cuộc thảo luận soạn hiến pháp. Đối với Đài Loan, Hiến pháp Trung Quốc Cộng hòa chính là một phương tiện để hợp pháp hóa việc sáp nhập lãnh thổ.
Như vậy, hiến pháp ở Đông Á là công cụ cho những chương trình chính trị rộng lớn trước khi trở thành công cụ giới hạn quyền lực chính trị và bảo vệ các quyền tự do. Điều đặc biệt đáng lưu ý là vai trò bảo hiến của Tòa án tối cao Nhật Bản, Tòa án hiến pháp ở Hàn Quốc và Đài Loan đã làm cho hiến pháp có khuynh hướng là một giới hạn pháp lý đối với chính quyền và bảo vệ các quyền tự do của con người. Có thể kết luận rằng, trong các nền dân chủ hợp hiến mới nổi, hiến pháp phải trải qua một quá trình phục vụ như một phương tiện cho các mục tiêu tổng quát, trước khi trở thành cam kết của nhân dân về các giới hạn đối với chính quyền và bảo vệ các quyền con người.
Bài báo được đăng trên trang Nghị viện thế giới thứ sáu hàng tuần, báo Đại biểu nhân dân, được hoàn thành trên cơ sở bài nghiên cứu của Ts. Bùi Ngọc Sơn, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội; NCS Đại học Hong Kong
Nguồn: nclp.org.vn