Vẫn còn những điểm nghẽn chính sách
Trong gần 1 triệu doanh nghiệp chỉ có khoảng 5.000 doanh nghiệp thực sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, tức chỉ chiếm 0,001%. Trong 5.000 doanh nghiệp này chỉ có 100 doanh nghiệp là nhà cung ứng cấp 1.
Theo TS. Lê Duy Bình - Giám đốc điều hành Economica Việt Nam, khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp Việt đang gặp phải khi gia nhập chuỗi cung ứng toàn cầu là việc đáp ứng những yêu cầu khắt khe, yêu cầu cao về phương diện kỹ thuật, quản trị và thời gian giao hàng của doanh nghiệp đầu chuỗi. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp Việt phải thiết lập hệ thống công nghệ đáp ứng yêu cầu về sản phẩm, quản trị doanh nghiệp, lao động, điều kiện về vệ sinh an toàn lao động. Những yêu cầu này không phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được.
Một điểm nghẽn nữa là yêu cầu về sản xuất xanh từ thị trường quốc tế ngày càng cao, buộc các quốc gia khác khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu phải đẩy nhanh quá trình xanh hoá sản xuất. Để đáp ứng những yêu cầu trên, doanh nghiệp phải đầu tư rất nhiều, trong khi đầu tư đòi hỏi nguồn vốn rất lớn và phải liên tục đáp ứng yêu cầu của đầu chuỗi.
Theo TS. Nguyễn Tú Anh - Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế (Ban Kinh tế Trung ương), thách thức lớn nhất khi tham gia chuỗi là nguồn nhân lực của doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang thiếu lao động có kỹ năng tay nghề và cả lao động phổ thông. Ngoài ra, thách thức trong kết nối doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. Trong khi đó, yêu cầu của doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp địa phương là tính ổn định và chất lượng cao, do đó doanh nghiệp trong nước muốn tham gia và kết nối vào chuỗi cung ứng cần đầu tư vào con người, công nghệ.
Đổi mới cách thức hỗ trợ doanh nghiệp
Để doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, theo TS. Nguyễn Duy Bình, cần hoàn thiện thể chế, chính sách; thủ tục hành chính, thủ tục xuất nhập khẩu, kiểm tra chuyên ngành cần phải được cải cách, cải thiện mạnh mẽ hơn nữa để tạo thuận lợi hoá thương mại, từ đó việc gia nhập chuỗi cung ứng toàn cầu mới dễ dàng hơn.
Bên cạnh đó, cần có hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp khi đầu tư vào lĩnh vực công nghệ. Cụ thể là hỗ trợ về trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm, trung tâm khảo thí… nhằm đáp ứng yêu cầu về ISO, tiêu chuẩn chất lượng. Thực tế, hiện nay những hệ sinh thái vẫn chưa hỗ trợ đầy đủ cho các doanh nghiệp, đặc biệt những ngành có nhu cầu về vốn lớn như năng lượng tái tạo, giao thông xanh.
Ngoài ra, cần phải đổi mới cách thức tiếp cận hỗ trợ doanh nghiệp. Ông Bình cho rằng, trong số các chính sách hỗ trợ của Nhà nước hiện nay, rất ít trong số này đã phát huy hiệu quả. Đổi mới thể chế, quy định pháp luật giúp cho con đường gia nhập chuỗi cung ứng thuận lợi hơn, rộng mở hơn. Do đó, tư duy hỗ trợ doanh nghiệp cũng cần đổi mới, bảo đảm hỗ trợ doanh nghiệp một cách trọng tâm, trọng điểm hơn nữa.
Hiện nay, khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi trở lại và đặc biệt là cơ hội mới bắt đầu xuất hiện, có sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng toàn cầu, điều này yêu cầu các doanh nghiệp phải tự nâng cao năng lực nội tại, phải vươn ra thị trường quốc tế và cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp nước ngoài theo đúng nguyên tắc thị trường.
Đại diện Economica Vietnam cho rằng việc gia nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong bối cảnh hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực tự thân của cộng đồng doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nỗ lực này sẽ thuận lợi, dễ dàng hơn rất nhiều nếu các điều kiện về mặt thể chế, môi trường kinh doanh, quy định pháp luật dễ dàng hơn, thuận lợi hơn cho quá trình nỗ lực tự thân của doanh nghiệp.
Chính sách hỗ trợ cần tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm, có giá trị gia tăng cao, tương lai của thế giới và cũng là tương lai của kinh tế Việt Nam trong thập kỷ sắp tới, như công nghiệp bán dẫn, chip, năng lượng xanh, y tế, chăm sóc sức khoẻ….
Trong bối cảnh hiện nay, chính sách hỗ trợ phải theo hướng: trả lại không gian cho thị trường thông qua các biện pháp hỗ trợ. Nhiều biện pháp hỗ trợ hiện nay theo hơi hướng cho không, bao cấp, điều đó rất cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, tuy nhiên, trong thời điểm này cần điều chỉnh lại cách thức này.
Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI) Nguyễn Thị Thu Trang cho rằng các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, điển hình là Liên minh châu Âu (EU) đang triển khai các quy định và tiêu chuẩn môi trường chặt chẽ hơn đối với các sản phẩm và dịch vụ nhập khẩu vào khu vực này. Như vậy, xanh hóa không còn là một lựa chọn mà là yếu tố quyết định thành công của đơn hàng khi xuất khẩu, đòi hỏi doanh nghiệp bắt buộc chuyển đổi xanh để đảm bảo sản phẩm, dịch vụ cuối cùng phù hợp với nhu cầu thị trường.