Trong số gần 5 vạn Bà mẹ Việt Nam anh hùng (BMVNAH), có những Mẹ là “anh hùng của những anh hùng”:
BMVNAH có nhiều thân nhân là liệt sĩ nhất, đó là Mẹ Nguyễn Thị Thứ (1904 - 2010), quê xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Mẹ có chồng, 9 con ruột, 1 con rể và 2 cháu ngoại là liệt sĩ. 4 người con là liệt sĩ chống Pháp gồm Lê Tự Hàn (anh), Lê Tự Hàn (em), Lê Tự Lan và Lê Tự Xuyên; 5 con là liệt sĩ chống Mỹ gồm, Lê Tự Trịnh, Lê Tự Chuyên, Lê Tự Thịnh, Lê Tự Mười và Lê Tự Nụ.
Hình ảnh Mẹ Thứ được chọn làm nguyên mẫu của Tượng đài BMVNAH với ý nghĩa, Mẹ là suối nguồn bao la vô tận, là linh hồn đất nước. Mẹ sinh ra từ mảnh đất anh hùng, rồi sinh ra những người con anh hùng và sẽ lại hóa thân vào đất, vào non nước Việt Nam. Mẹ sẽ sống mãi ngàn đời, vẫn tiếp thêm nguồn sức lực mạnh mẽ, dồi dào cho các thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
![]() Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam lấy nguyên mẫu chân dung Mẹ Thứ Nguồn: phunuvietnam.vn |
Ba chị em ruột đều là BMVNAH ở xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận đó là: Bà Bùi Thị Hải có chồng và 4 con là LS. Bà Bùi Thị Tư có 3 con là liệt sĩ. Bà Bùi Thị Nhỏ có 4 con là liệt sĩ. Thân phụ của các mẹ là cụ Bùi Văn Tố. Người dân xã Hàm Chính thường nói với nhau rằng, nếu có danh hiệu thì cụ Tố xứng đáng là “Người Cha Việt Nam anh hùng”.
Mẹ, con gái, con dâu đều là BMVNAH: BMVNAH Nguyễn Thị Diệp, xã Bình Phong Thạch, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An có 3 con là liệt sĩ; con gái thứ 3 của mẹ, bà Nguyễn Thị Rằng là BMVNAH, có 4 con là liệt sĩ; con dâu mẹ, bà Võ Thị Thanh là BMVNAH, có chồng và 2 con là liệt sĩ.
Bản thân, mẹ đẻ, mẹ chồng đều là BMVNAH: Bà Nguyễn Thị Vinh, sinh năm 1920 ở xã Thanh Hòa, huyện Bến Lức, Long An được phong tặng danh hiệu BMVNAH, có chồng và 6 con là liệt sĩ. Mẹ đẻ của bà là cụ Phạm Thị Khuyên cũng là BMVNAH, có chồng và 2 con là liệt sĩ. Mẹ chồng của bà là cụ Lê Thị Quý cũng là BMVNAH, có chồng và 2 con là liệt sĩ.
Bà Nguyễn Thị Bích, sinh năm 1935, ở xã Thanh Nhựt, huyện Gò Công Tây, Tiền Giang được phong tặng danh hiệu BMVNAH, có chồng và 2 con là liệt sĩ. Mẹ đẻ của bà, cụ Ngô Thị Lộc cũng là BMVNAH, có chồng và 2 con là liệt sĩ. Mẹ chồng của bà, cụ Huỳnh Thị Thôi là BMVNAH, có 3 con là liệt sĩ.
Một gia đình có 4 BMVNAH: BMVNAH Trần Thị Đỉnh, xã Phú Đa, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế có chồng và 5 con là liệt sĩ. Mẹ có con gái là bà Vương Thị Lành là liệt sĩ, được truy tặng danh hiệu BMVNAH và có 3 con là liệt sĩ; Con dâu là Trung úy công an Phan Thị Thế là BMVNAH, có con độc nhất là liệt sĩ. Con dâu mẹ, bà Phan Thị Vũ được phong tặng danh hiệu BMVNAH, có chồng và 3 con là liệt sĩ.
Ba mẹ con đều là BMVNAH: Cụ Võ Thị Diện, sinh năm 1895, quê xã Bình Giang, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam là BMVNAH, có 3 con là liệt sĩ. Con gái thứ 3 của cụ, bà Nguyễn Thị Tu cũng là BMVNAH, có 2 con mà cả 2 đều là liệt sĩ. Con gái thứ 6 của cụ, bà Nguyễn Thị Chuyên là BMVNAH, có chồng và 2 con là liệt sĩ.
Mẹ anh hùng, con cũng anh hùng: Mẹ Phan Thị Vòng, sinh năm 1916, quê xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, được phong tặng danh hiệu BMVNAH bởi mẹ có 3 con là liệt sĩ. Con gái mẹ, bà Đặng Thị Liễu được phong tặng danh hiệu BMVNAH bởi có chồng và con độc nhất là liệt sĩ.
Mẹ chồng anh hùng, nàng dâu cũng anh hùng: Trường hợp 1, mẹ Huỳnh Thị Khiết, sinh năm 1910, quê xã Hòa Thắng, huyện Bắc Ninh, tỉnh Bình Thuận, được phong tặng danh hiệu BMVNAH, có 4 con là liệt sĩ. Con dâu mẹ, bà Lê Thị Phất cũng là BMVNAH bởi có chồng và 4 con là liệt sĩ. Trường hợp 2, mẹ Dương Thị Thiện, quê xã Nga Bạch, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa được truy tặng danh hiệu BMVNAH có con độc nhất là liệt sĩ. Con dâu của mẹ, bà Trần thị Ken (cùng quê) được phong tặng danh hiệu BMVNAH, cũng có con độc nhất là liệt sĩ.
Những người mẹ vừa là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vừa là BMVNAH
Mẹ Văn Thị Thừa, sinh năm 1915, quê xã Duy An, huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam, có chồng và 4 con là liệt sĩ. Mẹ Nguyễn Thị Rành, sinh năm 1900, quê xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh, có 8 con và 2 cháu nội là liệt sĩ. Mẹ Phạm Thị Ngư, sinh năm 1912, quê xã Phong Nẫm, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận có 7 con là LS. Mẹ Võ Thị Nhã (tức Cưu), sinh năm 1921, quê xã Đức Chánh, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, có chồng và 2 con là liệt sĩ. Mẹ Đỗ Thị Phúc, sinh năm 1906, quê xã Phương Xá, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, trú quán, xã Nam Thái Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang, có chồng và 2 con là liệt sĩ. Mẹ Bùi Thị Thêm, sinh năm 1924, quê huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang có chồng và 2 con là liệt sĩ. Mẹ Huỳnh Thị Tân, sinh năm 1906, quê xã Mỹ Qưới, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng, có 5 con là liệt sĩ. Mẹ Doãn Thị Nghiệp, sinh năm 1925, quê xã Bình Phú, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, có 2 con thì cả 2 là liệt sĩ; bản thân mẹ cũng là liệt sĩ (Bằng Tổ quốc ghi công số 2Z 036b). Mẹ Mai Thị Út, sinh năm 1913, quê xã Mỹ Hanh Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang; trú quán xã Mỹ Phước Tây, huyện Cai Lậy, có chồng và 2 con là liệt sĩ. Mẹ Nguyễn Thanh Tùng (tức Nguyễn Thị Điểm), sinh năm 1941, quê xã Phú Thọ Hòa, quận Tân Bình; trú quán nhà 61B, Ký Con, phường Nguyễn Thái Bình, quận I, thành phố Hồ Chí Minh, có chồng và 2 con là liệt sĩ...
Trong thời kỳ chiến tranh, Đảng, Nhà nước và Bác Hồ đã đánh giá cống hiến lớn lao của phụ nữ Việt Nam bằng 8 chữ vàng: Anh hùng – Bất khuất – Trung hậu – Đảm đang. Đánh giá đó vẫn nguyên nghĩa, nguyên giá trị cho đến bây giờ. Đó là những phẩm chất cốt lõi luôn khắc sâu trong lòng tự hào dân tộc, đã trở thành tượng đài về phẩm giá, đạo đức, cuộc sống của Phụ nữ Việt Nam mà các Mẹ là những tấm gương trong sáng ngời ngời.
________
(1) Theo tài liệu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các tài liệu khác đã được công bố.