Biểu tượng sinh động, quật cường của khát vọng độc lập, tự do và thống nhất đất nước
TS. Trần Văn - ĐBQH Khóa XII, XIII

Cách đây đúng tròn 50 năm, ngày 30.4.1975, cuộc kháng chiến thần thánh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước đã đi đến thắng lợi hoàn toàn. Nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng dư âm về tinh thần bất khuất, ý chí quật cường, không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào của dân tộc và nhân dân Việt Nam chắc chắn vẫn còn mãi mãi. Đóng góp vào thắng lợi vĩ đại đó có tuyến vận tải chiến lược huyền thoại: Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh, một quyết định lịch sử mang tầm thời đại của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trận đồ bát quái xuyên rừng rậm
Ngay sau chiến thắng 30.4, đã có nhiều cuộc tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm với riêng từng đơn vị, từng mặt trận, từng chiến dịch… và chung cho cả nước. Nhiều bộ sách tổng kết lớn như “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975”, “Lịch sử quân sự Việt Nam” của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, “Lịch sử Đoàn 559 Bộ đội Trường Sơn Đường Hồ Chí Minh", "Lịch sử vận tải Quân đội nhân dân Việt Nam 1945 - 1974…"
Phía bên kia chiến tuyến, cũng đã có rất nhiều tác giả, tác phẩm nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam, trong đó có nhiều tài liệu về tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh, về Bộ đội Trường Sơn mà tôi đặc biệt quan tâm, bởi tầm quan trọng của công tác hậu cần trong chiến tranh. Các tư liệu quý, hiếm từ hai phía có lẽ sẽ cho chúng ta cái nhìn toàn diện hơn về những trang sử hào hùng của dân tộc, tái hiện đại thắng lịch sử mùa Xuân năm 1975.

Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - trận đồ bát quái xuyên rừng rậm - đã trở thành huyền thoại, được coi là biểu tượng của cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc mà chính đối phương phải thừa nhận, còn “người Mỹ lại coi những sự đau khổ của họ bắt nguồn từ con đường mòn bất khả xâm phạm này” (Van Geirt. La piste Hồ Chí Minh, NXB Edition Speciale Paris. 1971).
Con đường ra tiền tuyến đã được Bộ đội Trường Sơn sinh ra và nuôi dưỡng bằng mồ hôi và máu của mình; người ta đã vạch ra và đặt những bàn chân trần, những bàn chân mà gai góc và đá tai mèo đã làm rách nát, những bàn chân với bao nốt xước, phồng rộp đã bị sương muối núi cao làm dập ra, những bàn chân rướm máu đã đặt lên những hòn đá nóng hơn than hồng dưới mặt trời mùa hạ (Jacques C. Despuech. L’offensive du Vendrodi Saint. NXB Fayard Paris. 1973).
Tất cả có lẽ đã phần nào cho thấy sự khâm phục của kẻ thù đối với Bộ đội Trường Sơn, đối với con đường chiến lược.

Trong cuốn “The Blood Road: The Ho Chi Minh Trail and the Vietnam War”[1], tác giả J. Prados đã cho thấy mức độ đánh phá tuyến đường vô cùng ác liệt. Chỉ tính riêng 6 tháng của “Chiến dịch Commando Hunt VII” (giai đoạn 7 của chiến dịch không kích đường Trường Sơn từ tháng 11.1968 đến tháng 3.1973), từ tháng 10.1971 đến tháng 3.1972, đã có 170.552 tấn bom được ném xuống đường Trường Sơn với khoảng 96 nghìn quân, tính ra mỗi người lính Trường Sơn phải hứng chịu 2 tấn bom Mỹ.
Chịu nhiều bom đạn và chất cháy, ven đường là “một lớp bụi dày đến đầu gối, đất đá biến thành tro, khi gió mùa tới và mưa xuống những thứ bụi đó bết lại thành bùn, làm cho đường trơn như mỡ. Không ai có thể sống được ở đây, kể cả con dế mèn. Chỉ có con người mới chịu đựng nổi”[2].
Ấy vậy mà tới cuối năm 1973, đường Trường Sơn không còn là đường mòn nữa mà đã trở thành đường nhựa hai làn xe, khối lượng hàng quân sự được chuyển qua tuyến đường tăng từ vài trăm tấn một tuần vào năm 1966 lên hơn 10 nghìn tấn mỗi tuần từ 1970 và tăng lên 22 lần vào năm 1974 so với năm 1966 cho dù kẻ địch đánh phá vô cùng ác liệt, tần suất cao. Chỉ tính riêng giai đoạn từ năm 1964 đến năm 1972 đã có 426.000 đợt không kích của máy bay ném bom và hơn 30.000 lượt của “pháo đài bay” B-52, ném 1,7 triệu tấn bom xuống tuyến đường Trường Sơn ở Hạ Lào tương đương với hơn 12 lần quả bom nguyên tử ném xuống TP. Hirosima của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới lần thứ II.
“Địch đánh một, ta làm mười”, “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”
Tác giả Frederick F. Nyc III trong cuốn “Blind Bat: C-130 Night Forward Air Controller Ho Chi Minh Trail” (Nhà xuất bản Eakin Press, Austin, Texas, Hoa Kỳ) đã mô tả rất kỹ về “Blind Bat” - một đơn vị tác chiến tiền phương kiểm soát trên không (FAC) của Không quân Mỹ (USAF) đóng ở Ubon, Thái Lan gồm các máy bay C-130, sau đó được bổ sung 2 máy bay B-57 và EF-10 của hải quân để tham gia “Chiến dịch Steel Tiger” chuyên để kiểm soát và đánh phá đường Hồ Chí Minh, có cả hệ thống trinh sát điện tử với sự tham gia của máy bay F-4 ném bom nhiệt áp dụng chùm CBU và bom thông thường.
Bên cạnh đó, chiến tranh thời tiết, chiến tranh điện tử cũng được huy động tối đa. Điển hình là “Igloo White” hay “hàng rào điện tử McNamara” ở khu vực giới tuyến và dọc đường Trường Sơn. Các máy bay F-4 từ căn cứ TFW-8 Ubon đã thả các thiết bị cảm biến âm thanh và chuyển động được ngụy trang trông giống như cây rừng để giám sát mọi hoạt động trên tuyến đường Hồ Chí Minh, tín hiệu phát hiện được sẽ được truyền cho máy bay C-121 bay vòng vòng trong khu vực, từ đó truyền về trung tâm máy tính ở Nakhon Phanon, được bộ phận tình báo phân tích và chuyển ngay cho Trung tâm chỉ huy và kiểm soát không quân (ABCCC), rồi đến FAC để ném bom, bắn phá trên tuyến đường.

Theo tác giả Peter E. Davies[3], phía Mỹ đã huy động tổng lực không quân đánh phá đường Hồ Chí Minh từ 21 căn cứ không quân, trong đó có 10 căn cứ ở Việt Nam, 7 căn cứ ở Thái Lan (U-Tapao, Don Muong, Korat, Takhli, Ubon, Udorn, Nakhon Phanom), Marble Mountain Air Facility của thủy quân lục chiến USMC, Task Force 77 của Hạm đội 7 từ các tàu chở sân bay Yankee và Dixie, Andersen AFB, Guam Mỹ với các loại máy bay tân tiến, vũ khí hủy diệt khủng khiếp nhất.
Không chỉ ngăn chặn đường Hồ Chí Minh bằng đường không, Mỹ còn tổ chức nhiều cuộc hành quân bộ, trong đó nổi bật nhất là “Chiến dịch Lam Sơn 719”, nhưng cũng bị bộ đội ta đánh trả quyết liệt. Theo tác giả Sergio Miller[4], Mỹ đã phải công bố thiệt hại của cuộc hành quân Lam Sơn 719 gồm 298 xe quân sự gồm 54 xe tăng bị bắn cháy, 1/4 số quân tham gia chiến dịch chết và bị thương, riêng Mỹ chết 215, trong đó có 137 phi công và thành viên phi hành đoàn, 818 bị thương. Riêng thiệt hại về máy bay là 103 chiếc bị bắn rơi và hư hỏng 631 chiến trực thăng. Trong vòng 6 tuần, MACV mất 10% tổng số máy bay trực thăng so với toàn cuộc chiến. Một đơn vị có 32 máy bay trực thăng chỉ còn lại 8 chiếc sau 2 tuần.

Theo tác giả Phillip B. Davidson[5], thì từ tháng 3.1968, để ngăn chặn đường mòn Hồ Chí Minh, tướng Westmoland đã từng cân nhắc sử dụng các “chiến dịch đặc biệt'' đưa biệt kích đánh ra phía Bắc giới tuyến, tấn công vào đất Campuchia và Lào. Cũng theo tác giả Phillip B. Davidson, tới năm 1973 đường Hồ Chí Minh được mở rộng và hiện đại hóa, chạy xe được trong mọi thời tiết tăng thêm khoảng 12.000 dặm chiều dài. Mùa Xuân năm 1975, người Mỹ vô cùng kinh ngạc và lấy làm phi thường khi hơn 7.000 xe vận tải đã sống sót sau những trận bom ác liệt, vượt giới tuyến chạy bon bon trên đường Trường Sơn đã được nâng cấp, đưa 73.000 quân và hơn 500 xe tăng vào Nam. Nằm tại các vị trí chiến lược là 13 tiểu đoàn phòng không mới được thành lập, trong đó lữ đoàn tên lửa SAM 263 đóng ở Khe Sanh. Tuyến đường ống xăng dầu được kéo dài tới tận Nam Bộ[6].
Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn đã trở thành chiến trường “hợp đồng binh chủng” với dấu ấn đậm nét của Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên trong suốt quá trình đối phó với sự đánh phá, ngăn chặn điên cuồng của Mỹ và Quân đội Việt Nam Cộng hòa trên toàn tuyến với những phương châm sáng tạo “địch đánh một, ta làm mười” hay “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”[7] cùng với hậu phương lớn ở miền Bắc, nơi nhiều nhà máy, công trường, nông - lâm trường, xí nghiệp, trường học đã động viên 30 - 50% số người trong biên chế để lên đường vào miền Nam chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Bộ Quốc phòng đã huy động hơn 10.000 xe vận tải của Bộ đội Trường Sơn, 2.745 xe của các đơn vị kỹ thuật, 3.929 xe của các quân khu, quân đoàn, quân - binh chủng vào phục vụ Chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975[8].

Từ tuyến chi viện chiến lược này, có thể thấy, con đường tới ngày toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông về một mối, Đại thắng 30.4.1975, hoàn toàn rộng mở.
Đánh giá về tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh, cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ghi trong Sổ vàng truyền thống của Bộ đội Trường Sơn: đây là một trong những nhân tố chiến lược có ý nghĩa quyết định đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn…; “một pho lịch sử bằng vàng để các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau học tập và noi theo”.
Cách đây 66 năm, thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về mở con đường bí mật xuyên Trường Sơn để chi viện cho cách mạng miền Nam, đúng ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu (19.5.1959), Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn công tác quân sự đặc biệt (mang mật danh Đoàn 559), làm nhiệm vụ mở đường vào miền Nam dọc theo dãy Trường Sơn, vận chuyển hàng quân sự, đưa đón cán bộ, chiến sĩ vào chiến trường đánh Mỹ. Từ đây, tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn hình thành, mang tên gọi đường Hồ Chí Minh và không ngừng phát triển, cùng sự phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
[1] “The Blood Road: The Ho Chi Minh Trail and the Vietnam War” (tạm dịch “Con đường máu: Đường Hồ Chí Minh và Chiến tranh Việt Nam”) của tác giả J. Prados, Nhà xuất bản John Wiley&Son, 1999, trang 370.
[2] Theo Van Geirt. La piste Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Edition Speciale Paris. 1971, trang 27.
[3] Tác giả cuốn “Ho Chi Minh Trail 1964-73 Steel Tiger, Barrel Roll, and the secret air wars in Vietnam and Laos”, Nhà xuất bản Osprey. USA. 2020.
[4] Tác giả cuốn “No Wider War. A History of the Vietnam War”, Volume 2: 1965 - 1975, Nhà xuất bản Osprey 2021.
[5] Tác giả cuốn “Vietnam at War: The History 1946 - 1975”. Nhà xuất bản Oxford University Press.1991.
[6] Theo N. S. Nash. “Logistics in the Vietnam War 1945 - 1975”. Nhà xuất bản Pen & Sword Military. 2020. UK.
[7] Theo Thiếu tướng Phan Khắc Hy. Trường Sơn 60 năm nhớ lại. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019.
[8] Theo “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015, trang 408.