
TS. Chu Đức Tính
Nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh
Ngày 6.7.1956, trong thư gửi đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của Nhân dân ta”. Ngày 30.4.1975, điều này đã trở thành hiện thực, thành cơ sở đầu tiên của kỷ nguyên độc lập - tự do trong 50 năm qua và tiếp tục trở thành nền tảng vững chắc cho kỷ nguyên mới.
Độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội
Một ngày sau khi quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ, ngày 8.5.1954, trong thư khen bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc, Bác Hồ đã viết: "Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ… Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu".
Tham dự Hội nghị lần thứ sáu (mở rộng), Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa II, ngày 15.7.1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo quan trọng gồm hai phần: Tình hình mới và Nhiệm vụ mới. Ở phần Tình hình mới, sau khi giới thiệu thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thái độ của Mỹ đối với Hội nghị Geneve, Người khẳng định: "Mỹ là kẻ thù chính của hòa bình thế giới… Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của Nhân dân Việt, Miên, Lào".

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần vạch rõ, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội là ba mục tiêu gắn chặt với nhau của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại ngày nay.
Thực hiện Hiệp định Geneve về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam ký ngày 20.7.1954, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Bộ đội ta từ miền Nam tập kết ra miền Bắc, để lại miền Nam do quân đội Pháp và tay sai quản lý. Với một niềm tin vào Hiệp định, bộ đội, cán bộ ta xuống tàu ra Bắc đều giơ 2 ngón tay hẹn 2 năm trở về.
Tuy nhiên, chính quyền miền Nam được người Pháp can thiệp và Mỹ giúp sức đã sớm xé bỏ Hiệp định. Họ đàn áp, trả thù những người kháng chiến cũ; tuyên bố không tổ chức Tổng tuyển cử; chủ trương chia cắt 2 miền Nam - Bắc, đỉnh cao là việc lê máy chém khắp miền Nam để thực thi “Quốc sách: tố Cộng, diệt Cộng”.
Trước hành động ấy của chính quyền miền Nam, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn kiên trì chủ trương đối thoại, nhiều lần đề nghị với chính quyền Sài Gòn mở Hội nghị Hiệp thương, lập lại quan hệ bình thường… Ngày 6.7.1956, trong thư gửi đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của Nhân dân ta”.

Tháng 2.1958, trong Tuyên bố tại cuộc họp báo ở New Delhi (Ấn Độ) về vấn đề thống nhất nước Việt Nam, quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Miền Nam là thịt của thịt chúng tôi, là máu của máu chúng tôi. Nhân dân Việt Nam sẽ được thống nhất”.
Đầu năm 1959, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 15 đã xác định: con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng (1960), Người vạch rõ: “Nhiệm vụ hiện nay của cách mạng Việt Nam là: đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân trong cả nước”.

"Luôn đập một nhịp với trái tim của đồng bào miền Nam”
Tức nước vỡ bờ, Nhân dân miền Nam đã vùng dậy đấu tranh chống lại sự đàn áp của Mỹ và tay sai. Nghị quyết Trung ương 15 và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III đã kịp thời lãnh đạo Nhân dân tiến hành đấu tranh vũ trang, mở ra cục diện mới cho cách mạng miền Nam. Việc hình thành lực lượng vũ trang tại chỗ và sự chi viện ngày càng cao sức người, sức của từ miền Bắc đã sớm tạo ra sự thay đổi tương quan lực lượng quân sự ở miền Nam, theo hướng có lợi cho cách mạng miền Nam.
Năm 1963, tại Kỳ họp thứ Sáu, Quốc hội Khóa II, đúng vào dịp chuẩn bị sinh nhật lần thứ 73 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đại biểu đã nhất trí đề nghị trao tặng Người Huân chương Sao Vàng - huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam. Người đã cảm ơn Quốc hội và nói: “Chờ đến ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hòa bình, thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, Quốc hội cho phép đồng bào miền Nam trao tặng cho tôi huân chương cao quý này. Như vậy toàn dân ta sẽ sung sướng, vui mừng”.

Ngày 23.10.1963, trong "Lời chào mừng các đoàn đại biểu công đoàn quốc tế", Người bày tỏ tình cảm đối với Đoàn đại biểu Hội Lao động giải phóng miền Nam Việt Nam: “Trái tim của tôi và 17 triệu đồng bào miền Bắc luôn luôn đập một nhịp với trái tim của đồng bào miền Nam”.
Đầu năm 1965, trước thất bại nặng nề trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tham chiến, đồng thời dùng không quân, hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân ta đứng trước thử thách nghiêm trọng. Trước tình hình ấy, ngày 10.4.1965, phát biểu tại Kỳ họp thứ Hai, Quốc hội Khóa III, Người khẳng định: “Lúc này chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước”.
Trong Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước ngày 17.7.1966, Người viết: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song Nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, Nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

Đáp lời kêu gọi của Bác Hồ, cả nước sục sôi khí thế đánh Mỹ; hậu phương miền Bắc thực hiện khẩu hiệu: thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người. Tuổi trẻ hừng hực quyết tâm: xẻ dọc trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai; ba thứ quân ở miền Nam từ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích và các đội quân tóc dài đã biến cả miền Nam thành chiến trường, không chỗ nào là hậu phương an toàn của quân địch.
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 đã buộc Mỹ xuống thang chiến tranh và điều quan trọng là khiến người Mỹ hiểu không thể thắng được cuộc chiến tranh này; thất bại của cuộc tập kích bằng B52 ra Hà Nội càng cho người Mỹ thấy không thể khuất phục ý chí độc lập, thống nhất của người Việt Nam.
Năm 1975, sau chiến thắng giải phóng thị xã Phước Long, tiếp theo là chiến dịch Tây Nguyên cho thấy thời cơ giải phóng miền Nam đã chín muồi, quân ta liên tiếp tiến công giải phóng Huế, Đà Nẵng, duyên hải miền Trung và Chiến dịch Hồ Chí Minh cuối tháng 4 đã giải phóng Sài Gòn, non sông thu về một mối; điều Hồ Chí Minh khẳng định năm 1956: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của Nhân dân ta” đã trở thành hiện thực, thành cơ sở đầu tiên của kỷ nguyên độc lập - tự do trong 50 năm qua và tiếp tục trở thành nền tảng vững chắc cho kỷ nguyên mới: kỷ nguyên phát triển, phồn vinh của dân tộc Việt Nam.