PGS.TS. NGƯT Nguyễn Trọng Cơ - Học viện Tài chính
Sự tự do cần thiết
Nói một cách ngắn gọn, tự chủ đại học là sự tự do cần thiết mà các cơ sở đào tạo đại học phải có để hoạt động quản lý, phát triển giảng dạy và nghiên cứu theo một cơ chế hiệu quả nhất nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội trong bối cảnh vừa tạo ra nhiều động lực vừa đáp ứng cạnh tranh để có khả năng cống hiến tốt nhất cho các đối tượng liên quan với nỗ lực đổi mới và sáng tạo tri thức tiến bộ cho nhân loại và từ đó góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế tri thức.
Trong bối cảnh Việt Nam, tự chủ đại học có thể ví như Khoán 10 trong nông nghiệp, giúp cởi trói cho cơ sở đào tạo, giúp đại học làm chủ vận mệnh của mình, bởi cũng giống như người nông dân, các cơ sở đào tạo phải có quyền quyết định canh tác như thế nào trên chính “mảnh đất” của mình để đạt được hiệu quả cao nhất dưới sự hướng dẫn và chiến lược phát triển chung của đất nước trong khuôn khổ Luật Giáo dục đại học.
Trong 4 nội dung chính của tự chủ đại học là (i) tự chủ về tổ chức, (ii) tự chủ về tài chính, (iii) tự chủ về nhân sự, (iv) tự chủ về học thuật, thì tự chủ về tổ chức và tự chủ về tài chính được xem là những tiền đề quan trọng có khả năng hoàn thiện toàn bộ các nội dung tự chủ khác như tự chủ nhân sự và tự chủ học thuật vì tự chủ về tổ chức tạo ra cơ chế tập trung nguồn lực con người với phương thức lãnh đạo và văn hóa đổi mới hướng đến đại học chất lượng cao; còn tự chủ tài chính cho phép huy động nguồn tài chính và duy trì nguồn lực tài chính đảm bảo việc tuyển chọn lực lượng học thuật tốt nhất nhằm phát triển học thuật theo hướng sáng tạo đổi mới theo chiến lược của cơ sở đào tạo.
Còn nhiều vướng mắc, ràng buộc
Tự chủ tài chính đã dần trở thành con đường dẫn dắt cơ sở đào tạo đại học công lập ở Việt Nam tiến gần hơn tới tự chủ đầy đủ theo cả 4 nội dung, nhằm hội nhập với khu vực và thế giới. Tuy nhiên, quá trình thực hiện tự chủ tài chính tại các cơ sở đào tạo đại học công lập còn nhiều vướng mắc.
Một là, sự chưa đồng bộ giữa các văn bản thể chế trong đào tạo đại học, tự chủ tài chính, cũng như việc thực hiện các quy định này trên thực tiễn. Ví dụ, quy định về phụ cấp đặc thù cho ngành giáo dục, hay việc thực hiện quy định về Hội đồng trường theo Luật Giáo dục đại học trên thực tiễn còn khá mờ nhạt, mang tính hình thức.
Hai là, còn nhiều hạn chế, ràng buộc về nguồn thu của các cơ sở đào tạo. Cụ thể, một trong những vấn đề ảnh hưởng lớn tới nguồn thu của các cơ sở đào tạo là số lượng sinh viên, nhưng hiện tại các cơ sở đào tạo vẫn không được quyết định tự chủ về chỉ tiêu tuyển sinh mà phải tuân thủ các điều kiện về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh đối với các cơ sở giáo dục đại học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về điều kiện và giao chỉ tiêu tuyển sinh.
Ba là, bất cập khi quy định mức trần học phí thấp. Trong một thời gian dài, do bị khống chế về trần học phí, mức trần học phí thường thấp, thu không đủ chi, cho nên một số cơ sở đào tạo đại học công lập đã xé rào, ban hành nhiều khoản thu ngoài quy định, dẫn đến thiếu công khai, minh bạch trong sử dụng nguồn thu.
Bốn là, hạn chế trong quy định về định mức chi. Mặc dù là tự chủ tài chính, nhưng việc chi tiêu của các cơ sở đào tạo đại học công lập vẫn phải tuân thủ theo các định mức, tiêu chuẩn ngành theo quy định hiện hành của Nhà nước, trong đó có nhiều quy định đã lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn, nhiều định mức kinh tế kỹ thuật còn thiếu nhưng các cơ sở đào tạo không được tự xây dựng.
Năm là, thiếu đồng bộ trong quản lý tài chính, kế toán với quản lý đào tạo đại học. Hiện nay, học phí không còn chịu sự điều chỉnh của Luật Phí và lệ phí mà chịu sự điều chỉnh của Luật Giá. Cùng với đó là quy định về xác định giá dịch vụ theo quy định của Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, quy định lộ trình đến năm 2020 phải xác định đủ chi phí đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành Thông tư số 14/2019 hướng dẫn xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật làm cơ sở xác định chi phí, giá dịch vụ. Tuy nhiên, những hướng dẫn này vẫn còn rất nhiều vướng mắc trong thực hiện tại các cơ sở đào tạo...
Điều chỉnh cơ cấu ngân sách đầu tư cho đào tạo đại học
Nhằm nâng cao hiệu quả tự chủ tài chính trong đào tạo đại học công lập, cần điều chỉnh cơ cấu ngân sách đầu tư cho đào tạo đại học, trong đó tập trung: Điều chỉnh cơ cấu chi NSNN theo hướng tăng chi đầu tư, giảm chi thường xuyên; đồng thời điều chỉnh cơ cấu chi NSNN giữa các ngành học, ưu tiên các ngành học có ít khả năng xã hội hóa, nhưng cần thiết cho sự phát triển của đất nước như khoa học cơ bản, kỹ thuật.
Thay đổi đối tượng tiếp nhận ngân sách chi cho đào tạo đại học từ cơ sở đào tạo sang người sử dụng/thụ hưởng dịch vụ ĐTĐH theo các tiêu chí xác định mức độ ưu tiên lần lượt là: Dựa trên năng lực học tập để bảo đảm phát triển bồi dưỡng nhân tài, nguyên khí của quốc gia; dựa trên khả năng chi trả của người thụ hưởng dịch vụ như sau: NSNN thực hiện bao cấp người nghèo, hỗ trợ một phần cho người cận nghèo, thu phí từ thấp đến cao của người có thu nhập trung bình đến giàu. Điều này nhằm bảo đảm công bằng, phát triển bền vững kinh tế xã hội và chính trị quốc gia. Tuy nhiên, để có thể thực hiện tốt được giải pháp này, cần có những hướng dẫn đặc thù chi tiết trong lập dự toán, chấp hành và quyết toán đối với cơ sở đào tạo đại học công lập.
Chú trọng bố trí nguồn lực đầu tư đào tạo đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý cả số lượng và chất lượng, cả chuyên môn và đạo đức, vì đây là đội ngũ nòng cốt tác động trực tiếp vào chất lượng đào tạo. Đào tạo và xây dựng được một đội ngũ giảng viên giỏi là rất công phu và phải có cơ chế, chính sách sử dụng, đãi ngộ cho đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục có tài năng để họ cống hiến suốt đời cho sự nghiệp đào tạo.
Bãi bỏ quy định trần học phí, thay vào đó là quy định sàn học phí, dựa trên kết quả xác định chi phí đào tạo, gắn với một mức chất lượng đào tạo cam kết cụ thể. Chất lượng đào tạo và chi phí đào tạo có mối quan hệ ràng buộc nhưng không biện chứng. Không phải cứ chi phí cao là có chất lượng cao, nhưng chắc chắn không thể có chất lượng đào tạo cao với chi phí đào tạo thấp. Chi phí đào tạo luôn gắn với một mức chất lượng cụ thể.
Đứng trước bối cảnh nâng cao mức độ tự chủ trên tất cả các mặt hoạt động, gắn với trách nhiệm giải trình của các cơ sở đào tạo, việc để các cơ sở đào tạo đại học công lập tự xác định chi phí đào tạo, xác định và công bố giá dịch vụ đào tạo chính là minh chứng và biểu hiện rõ ràng nhất.