Coca và Pepsi
Pepsi ra đời sau Coca Cola 13 năm. Và trong khi Coca không ngừng vươn ra toàn cầu thì Pepsi 2 lần phá sản. Nhưng đến thời điểm hiện nay, có thể Pepsi và Coca không chênh lệch nhiều. Ngoài những nguyên nhân như cải tiến công thức, nắm bắt thị hiếu tiêu dùng… còn một nguyên nhân quan trọng khác cho thành công của Pepsi: lobby.

Nhân vật quan trọng nhất trong chiến dịch lobby của Pepsi trước đây chính là Tổng thống Mỹ đời thứ 37 - Richard Nixon. Dĩ nhiên, Pepsi tạo dựng quan hệ với Nixon từ khi ông còn chưa trở thành ông chủ Nhà Trắng. Nhờ mối quan hệ này, Pepsi đã được “một bước lên mây” khi Nixon vô tình rủ rê được Tổng bí thư Liên Xô Nikita Khrushchev cụng ly Pepsi để chụp ảnh lên báo ở hội chợ Moscow năm 1959. Tương truyền vì nặng “ơn nghĩa” với Pepsi, chữ ký đầu tiên của Nixon khi trở thành Tổng thống là... chỉ thị gỡ bỏ hết máy tự động bán Coca trong dinh tổng thống và thay vào đó là Pepsi. Dĩ nhiên, Coca cũng không đứng yên để chịu “ức hiếp”. Hãng này tìm đến một nhân vật “máu mặt” để làm lobby, đó là ông Jimmy Carter. Sau khi Carter lên làm Tổng thống, ông cũng làm 1 điều tương tự: chỉ thị gỡ bỏ hết máy bán Pepsi trong dinh tổng thống và thay bằng Coca. Nhưng Carter rõ ràng không có cơ hội để tạo dấu ấn mạnh mẽ như Nixon năm 1959.
Cho đến nay, Coca, Pepsi và các doanh nghiệp đồ uống khác vẫn chi đậm cho hoạt động lobby. Năm 2009, ngành này chi tổng cộng 60 triệu USD cho lobby. Dĩ nhiên, Coca và Pepsi luôn dẫn đầu. Năm 2009, Coca chi khoảng 9,4 triệu USD cho hoạt động lobby, tăng vọt từ 2,5 triệu USD năm 2008. Pepsi cũng không chịu kém cạnh, tăng chi phí lobby từ 1,2 triệu USD năm 2008 lên đúng bằng 9,4 triệu USD năm 2009.
Boeing và Airbus
Năm 2010, Bộ Quốc phòng Mỹ đã gạt Airbus để ký với Boeing hợp đồng mua máy bay tiếp liệu trị giá 35 tỷ USD. Một số người cho rằng kết quả này là đương nhiên, vì Boeing là công ty Mỹ, trong khi Airbus là công ty châu Âu. Tuy nhiên, miếng ngon không từ trên trời rơi xuống. Để có được hợp đồng này, Boeing đã phải chạy đua với Airbus suốt hơn 10 năm, từ khi Bộ Quốc phòng Mỹ có kế hoạch nâng cấp hệ thống máy bay tiếp liệu. Và “mặt trận” chính trong cuộc chạy đua giữa 2 đại gia này không phải công nghệ, giá cả, mà chính là lobby, theo tiết lộ của Politico. Chỉ trong năm 2008, 2 nhà sản xuất máy bay này đã chi tổng cộng trên 100 triệu USD cho lobby, trong đó Boeing chi 52 triệu USD và Airbus chi 47 triệu USD. Boeing cũng trội hơn Airbus khi lôi kéo được Hiệp hội Nhân công Hàng không và Kỹ thuật viên Quốc tế (IMAWA) đứng về phía mình trong cuộc chiến này. Không rõ Boeing đã chi cho IMAWA bao nhiêu, nhưng Politico cho biết IMAWA đã “nhả” ra 5 triệu USD để lobby cho Boeing. Trên phương diện “lobby công chúng”, mà cụ thể là các chiến dịch PR, Boeing cũng chi đậm hơn hẳn Airbus, khi chi 5 triệu USD cho hoạt động PR ở Thủ đô Washington DC, trong khi Airbus chỉ chi 1,7 triệu USD. Boeing cũng trội hơn về “gà” lobby. EADS (công ty mẹ của Airbus) thuê cựu Lãnh đạo phe đa số ở Thượng viện Trent Lott và cựu Nghị sĩ John Breaux làm lobby trong cuộc chiến này, trong khi Boeing thuê cả cựu Lãnh đạo phe thiểu số ở Hạ viện Dick Gephardt và phu nhân của cựu Lãnh đạo phe đa số ở Thượng viện Tom Daschle, bà Linda Daschle.
BP trong vụ tràn dầu Vịnh Mexico
Khi hàng triệu thùng dầu bắt đầu loang trên Vịnh Mexico vào tháng 4.2010, các nhà làm luật đảng Dân chủ bắt đầu bàn bạc về số tiền hợp lý mà công ty làm tràn dầu phải đóng phạt. Theo quy định của Mỹ, các công ty dầu mỏ phải đóng tiền vào Quỹ Nghĩa vụ dầu tràn (OSLTF) để giúp khắc phục những vụ tràn dầu lớn. Nhưng theo Đạo luật Ô nhiễm dầu (Oil Pollution Act of 1990), một công ty chỉ phải đóng tối đa 75 triệu USD. Tuy nhiên, chính quyền liên bang cho rằng con số đó đã lỗi thời, nên nâng lên 1 tỷ USD. Nhưng người ta nhanh chóng nhận ra rằng rõ ràng thiệt hại của vụ dầu tràn ở Vịnh Mexico vượt xa con số đó, nên một nhóm nghị sĩ, dẫn đầu là Robert Menendez, đã cố gắng thay đổi luật với đề xuất nâng mức trần từ 75 triệu USD lên 10 tỷ USD. Đề xuất này được phần lớn công chúng ủng hộ mạnh mẽ, nhưng dĩ nhiên vấp phải sự phản đối của đa số nghị sĩ Cộng hòa và một số nghị sĩ Dân chủ ở các bang có dầu mỏ. Ở giữa sự giằng co, các nhà lobby đã ra tay. BP chi 8,43 triệu USD năm 2011 để các nhà làm luật “thấy” rằng thảm họa tràn dầu không phải xuất phát từ nguyên do chủ quan của công ty. Đó là một con số tăng vọt so với 1 triệu USD chi cho lobby năm 2010. BP đã thuê một trong những công ty lobby danh giá nhất trong chiến dịch này. Năm 2011, họ trả The Duberstein Group 400.000 USD để lobby các nhà điều tra vụ tràn dầu, theo công bố của hồ sơ lobby. BP chi 90.000 USD cho Stuntz, Davis & Staffier để giúp vận động Quốc hội điều chỉnh Đạo luật “Offshore Moratorium”. Đại gia năng lượng Anh cũng chi 320.000 USD cho The Podesta Group trong năm 2011 để vận động các nhà làm luật cho phép công ty khai thác trở lại ở Vịnh Mexico. Không chỉ giúp giảm nhẹ các hình phạt, những đồng tiền lobby còn giúp BP giành được lợi lớn trong đấu thầu những giếng dầu và khí đốt ở Vịnh Mexico khi Chính quyền Obama đấu giá mời thầu các giếng dầu/khí đốt ở đó tháng 12.2011. Và trong khi BP đã bỏ qua trần 75 triệu USD và tuyên bố sẽ chi 7,8 tỷ USD để bồi thường vụ tràn dầu, tờ ProPublica cho rằng con số đó thấp hơn nhiều so với dự tính của nhiều người.