100 năm thành lập trường Mỹ thuật Đông Dương (27.10.1924 - 27.10.2024)

Khúc xạ hào quang rực rỡ

Nhắc tới trường Mỹ thuật Đông Dương người ta thường nói có một phong cách, mỹ cảm, một hương vị riêng của mỹ thuật thời kỳ này; dấu ấn ấy còn ảnh hưởng lâu bền, day dứt đến thẩm mỹ nhiều thế hệ họa sĩ trên cả nước ở những giai đoạn sau này.

Sứ mạng lịch sử

Năm 1920, họa sĩ Pháp Victor Tardieu đến Việt Nam như một sự tình cờ và định mệnh. Sau đó không lâu, ông may mắn nhận nhiệm vụ trang trí giảng đường lớn của Đại học Đông Dương (khi đó đang được xây dựng), thực hiện vẽ bức bích họa có diện tích khá lớn (77m2). Nhờ công việc vẽ tranh kéo dài nhiều tháng, Tardieu nhận thấy những người Việt tham gia hỗ trợ công tác trang trí có năng lực đặc biệt về thủ công. Tuy nhiên, ngoài một vài trường đào tạo mỹ thuật trang trí “sơ đẳng” ở Nam Kỳ (trường dạy vẽ ở Gia Định, trường dạy trang trí mỹ nghệ ở Biên Hòa) thì về giảng dạy mỹ thuật không hề có chương trình đào tạo chất lượng nào trong khu vực. Bên cạnh các dòng mỹ thuật dân gian, nền mỹ thuật cận - hiện đại Bắc Kỳ hay Trung Kỳ nói riêng và Đông Dương nói chung, tại thời điểm này, gần như không có.

Với tâm huyết và mong muốn phát triển nền mỹ thuật ở Đông Dương, năm 1921, Victor Tardieu đã gửi cho Toàn quyền Đông Dương bản báo cáo, trong đó khẳng định sự cần thiết mở một trường dạy mỹ thuật ở Hà Nội. Theo nhà nghiên cứu mỹ thuật Phạm Trung, sự thuyết phục về “tài năng nghệ thuật đặc thù của người An Nam”, về sự cần thiết “được dẫn lối để có thể bộc lộ và tỏa sáng” bởi “những khóa đào tạo chất lượng” dành cho “những tài năng bị chôn vùi của giới trẻ địa phương” đã giúp bản báo cáo này nhận được sự quan tâm đặc biệt.

1661054579-1-t-tranh-2513-3911.jpg
Một số bức tranh nổi tiếng của các họa sĩ trường Mỹ thuật Đông Dương

Những ý tưởng này đã khơi mào một dự án đổi mới nghệ thuật tại Đông Dương của Victor Tardieu, với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của nghệ thuật và văn hóa Việt Nam thông qua sự kết hợp nghệ thuật truyền thống Việt Nam với kỹ thuật và phong cách hiện đại của phương Tây để tạo ra một thế hệ nghệ sĩ Việt Nam mới được đào tạo cả về kỹ thuật truyền thống và hiện đại.

Từ đây, hành trình của mỹ thuật Việt Nam hiện đại mở đầu với sự thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương (ngày 27.10.1924, Toàn quyền Đông Dương Martial Merlin ký quyết định thành lập) có công lao rất lớn của họa sĩ Victor Tardieur, tiếp đến là Inguimbarty, Alix Ayme, Nam Sơn cùng nhiều họa sĩ, học giả người Pháp tham gia giảng dạy trong 20 năm tồn tại của trường.

TS. Phạm Trung nhận định: “Lịch sử nghệ thuật là những khúc quanh và những phát lộ bất ngờ. Họa sĩ Victor Tardieur trước khi là một người thầy tận tâm, được sinh viên kính trọng, yêu quý, thì bản chất ông là một nghệ sĩ tài năng đích thực. Chính tình yêu cảnh vật, con người Việt Nam và tâm hồn nghệ sĩ là động lực cá nhân để ông chèo chống, duy trì sự tồn tại, phát triển của Trường Mỹ thuật Đông Dương theo hướng đào tạo nghệ sĩ sáng tạo, bất chấp những sức ép nhiều lần muốn thay đổi phương thức đào tạo từ chính quyền thuộc địa”.

Kết hợp ảnh hưởng hai nền văn hóa

Trường Mỹ thuật Đông Dương từ khi mới ra đời đã đóng vai trò tổ chức và bảo trợ cho việc hình thành nền hội họa Việt Nam suốt 20 năm (1925 - 1945). Nhiều ngành học hội họa, điêu khắc, sơn mài, kiến trúc, chế tác đồ dùng, kim hoàn và chạm trổ, gốm, nghệ thuật ứng dụng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu thực tiễn xã hội. Theo PGS.TS. Đoàn Thị Mỹ Hương, Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam, trường Mỹ thuật Đông Dương được đánh giá như một “ân nhân” đã tạo ra bước ngoặt của lịch sử Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của văn hóa Việt Nam thế kỷ XX.

“Đó là kết quả của một hành trình đi từ những ý tưởng phục hồi nền thủ công mỹ nghệ đang chậm phát triển đến một dự án đổi mới nghệ thuật, củng cố những kỹ thuật bản địa và cung cấp những kiến thức nghệ thuật từ phương Tây nhằm “Tây hóa” nghệ thuật Việt Nam. Ngôi trường này đã tạo nên một thiết chế và chương trình dạy học độc đáo bởi có sự kết hợp ảnh hưởng của hai nền văn hóa Pháp - Việt”, PGS.TS. Đoàn Thị Mỹ Hương nhận định.

Nghiên cứu chỉ ra đầu thế kỷ XX, những người làm mỹ thuật ở Việt Nam vẫn chỉ là những nghệ nhân khuyết danh ở làng nghề thủ công, phường thợ dân gian. Các họa sĩ Việt Nam giai đoạn 1925 - 1945 là thế hệ họa sĩ Việt Nam đầu tiên có một nền tảng học vấn cao, bộc lộ tình cảm của mình trên tác phẩm với bút pháp hiện đại trên cơ sở hiểu biết về tri thức khoa học. Họ gặt hái thành công và thương mại hóa tác phẩm của mình qua các đấu xảo, triển lãm trong nước và quốc tế. Nghề họa sĩ đã khẳng định một hình thái nghệ sĩ mới của nền mỹ thuật mới, thực thụ.

Nhà phê bình mỹ thuật Bùi Như Hương phân tích, khi nói đến Trường Mỹ thuật Đông Dương, người ta thường nói có một phong cách mỹ thuật Đông Dương, một mỹ cảm riêng, một hương vị riêng, nằm trong dòng chảy đầy cảm thức văn hóa phương Đông và dân tộc. Như bút pháp hiện thực cổ điển được thấy ở một vài bức chân dung bằng sơn dầu ít ỏi còn lại của họa sĩ Nam Sơn. Hiện thực pha ấn tượng rõ nét trong sáng tác của Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị… Phong cách ấy tiếp tục mở rộng ra một tinh thần phương Đông rõ rệt trong tranh lụa của Lê Phổ, Lê Văn Đệ, Mai Trung Thứ… Sơn mài cũng bắt đầu có tiếng nói nhất định với trải nghiệm tranh của Nguyễn Gia Trí, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Văn Tỵ… mỗi người mỗi vẻ song không ít người còn vương víu cảm thức của trang trí mỹ nghệ mang tính dân gian cổ truyền trước đó.

Theo thời gian, những giá trị nghệ thuật của trường Mỹ thuật Đông Dương đã, đang và tiếp tục ảnh hưởng đến nhiều sáng tác mỹ thuật. Nói như PGS.TS. Đoàn Thị Mỹ Hương: “Ngày nay, Việt Nam có nền nghệ thuật đương đại phát triển mạnh mẽ, với nhiều nghệ sĩ lấy cảm hứng từ các loại hình nghệ thuật truyền thống Việt Nam và phong cách quốc tế. Có thể nói, từ lịch sử của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã cho một cái nhìn, một dẫn chứng về di sản nghệ thuật, về đổi mới nghệ thuật, về trao đổi, tiếp biến văn hóa và những tác động đến nền mỹ thuật đương đại Việt Nam”.

Ý kiến bạn đọc

Văn hóa - Thể thao

Ngoài tour đêm đền Hùng, Phú Thọ xây dựng các sản phẩm mới góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Văn hóa

Kết nối linh thiêng nguồn cội

Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương 2025 không chỉ là dịp để tri ân công đức tổ tiên mà còn là cơ hội để Phú Thọ nâng tầm thương hiệu du lịch địa phương. Với sự cải tiến trong tổ chức lễ hội, đa dạng hóa trải nghiệm, nâng cao chất lượng dịch vụ và ứng dụng công nghệ số, Phú Thọ mong muốn mang đến lễ hội trang nghiêm, hấp dẫn, bảo đảm tính bền vững trong phát triển du lịch.

Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm
Văn hóa - Thể thao

Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm

Giỗ Tổ Hùng Vương vừa có giá trị văn hóa, vừa có giá trị tâm linh sâu sắc và ý nghĩa về sự phát triển bền vững của đất nước. Bởi đây là biểu hiện linh thiêng, tập trung nhất về lòng yêu nước và sức mạnh đoàn kết trường tồn của dân tộc Việt Nam.

Hội tụ về nguồn, lan tỏa năm châu
Văn hóa - Thể thao

Hội tụ về nguồn, lan tỏa năm châu

Khởi nguồn từ vùng đất Tổ Phú Thọ, không gian tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương lan tỏa theo hành trình người Việt mở cõi, cùng kiều bào ta ra thế giới. Vượt thời gian, địa lý và văn hóa, tín ngưỡng ấy trở thành sợi dây kết nối tâm linh bền chặt, hội tụ những trái tim con Lạc cháu Hồng hướng về cội nguồn.

Hướng về cội nguồn trong kỷ nguyên phát triển mới
Xã hội

Hướng về cội nguồn trong kỷ nguyên phát triển mới

Mỗi độ tháng ba về, khắp mọi miền đất nước lại cùng nhau hướng về ngày Giỗ Tổ để tưởng nhớ và tri ân các Vua Hùng đã có công dựng nước. Giỗ Tổ Hùng Vương không chỉ là nghi lễ truyền thống mà còn là biểu tượng thiêng liêng, khơi dậy tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước và ý thức về cội nguồn trong mỗi người dân Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với ngày Giỗ Tổ Hùng Vương
Văn hóa - Thể thao

Chủ tịch Hồ Chí Minh với ngày Giỗ Tổ Hùng Vương

TS. Chu Đức Tính - Nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Chính Người từng ký Sắc lệnh cho viên chức công sở nghỉ làm việc và được hưởng lương ngày Giỗ Tổ. Người cũng từng dự Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương tại Hà Nội và nhiều lần về thăm Đền Hùng, căn dặn tu sửa, gìn giữ di tích để con cháu cả nước về thăm viếng…

Tự hào con cháu Vua Hùng, tự hào là người Việt Nam!
Văn hóa - Thể thao

Tự hào con cháu Vua Hùng, tự hào là người Việt Nam!

PGS. TS. Bùi Hoài Sơn

Hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, tinh thần thời đại các Vua Hùng luôn tỏa sáng trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Khi Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới với khát vọng trở thành quốc gia hùng cường, thì giá trị từ ngày Giỗ Tổ không chỉ là sự trở về với cội nguồn, mà còn là điểm tựa tinh thần vững chắc.

Ông Phạm Trần Đang đang sửa soạn ban thờ để chuẩn bị cho lễ Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2025
Văn hóa

Hào khí Văn Lang trên miền đất thép

Trong tác phẩm “Ta đi tới”, cố nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Chúng ta con một cha, nhà một nóc/Thịt với xương tim óc dính liền...”. Chắc chắn trên thế giới ít có dân tộc nào như dân tộc ta, chung quan niệm mình là cháu con một nhà, cùng thờ một tổ tiên là Hùng Vương. Cũng như mọi người dân trong cộng đồng người Việt, người dân miền đất thép Thái Nguyên luôn coi trọng việc thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng thờ Vua Hùng đã trở thành phong tục tốt đẹp được lưu truyền từ đời này sang đời khác.

Tạo không gian mở phát triển văn học
Văn hóa - Thể thao

Tạo không gian mở phát triển văn học

Văn học chưa có khung pháp lý thống nhất và chi tiết để định hướng, cụ thể hóa chính sách cho tác giả, tác phẩm, hoạt động trong lĩnh vực này. Việc xây dựng, ban hành nghị định về khuyến khích phát triển văn học vừa đáp ứng nhu cầu cấp thiết, vừa mang ý nghĩa quan trọng.

Chùa Cây Thị: Hành trình lịch sử và phục hưng của một di sản tâm linh
Văn hóa - Thể thao

Chùa Cây Thị: Hành trình lịch sử và phục hưng của một di sản tâm linh

Nằm ẩn mình trong khung cảnh thiên nhiên hữu tình của thôn Chè Trình, xã Thanh Tâm, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, chùa Cây Thị – hay còn được biết đến với tên gọi Tịnh Viện Di Đà – không chỉ là một địa điểm thờ tự mà còn là chứng nhân lịch sử của vùng đất gắn liền với nhiều biến cố và bước ngoặt của thời gian.