
Từ những năm 80 của thế kỷ trước, Trung Quốc đã đẩy tốc độ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về nguồn nước cụ thể như: Luật Hiến pháp năm 1982 (sửa đổi bổ sung năm 1988, 1993, 1999 và năm 2004); Bộ luật Dân sự năm 1986; Bộ luật Hình sự năm 1979 (sửa đổi bổ sung năm 2009); Luật Xây dựng năm 1997; Luật Quản lý đất đai năm 1986 (sửa đổi bổ sung năm 1988, 1998 và năm 2004); Luật Điện lực năm 1995; Luật Nước năm 2002; Luật Bảo vệ Môi trường năm 1989; Luật Bảo tồn đất và nước năm 1991 (sửa đổi bổ sung năm 2010); Luật Đánh giá tác động môi trường năm 2002; Luật Phòng chống ô nhiễm nguồn nước năm 1984 (sửa đổi bổ sung năm 1996 và năm 2008); Luật Phòng chống lũ năm 1997; Pháp lệnh về Thủy văn năm 2007; Luật Thăm dò tài nguyên năm 1986 (sửa đổi bổ sung năm 1996).
Ngoài ra, còn có một số các quy định khác của nhà nước liên quan đến nước như: quy chế quản lý sông; 20 quy định quản lý hành chính về nguồn nước; hơn 90 quy định của bộ, ngành và hơn 800 văn bản quy phạm pháp luật khác quy định về nguồn nước của các tỉnh, địa phương của Trung Quốc.
Trong số trên, Luật Nước là pháp luật cơ bản, là một phần quan trọng của pháp luật Trung Quốc. Để đáp ứng được nhu cầu phát triển bền vững, hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, phát triển dân số, xã hội - kinh tế, mối quan hệ sinh thái và môi trường, tăng cường vĩ mô quản lý tài nguyên nước, phân bổ hợp lý, tiết kiệm, tăng cường tích hợp phát triển và sử dụng tài nguyên nước trong việc bảo vệ môi trường sinh thái… Luật Nước của Trung Quốc được ban hành cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và nó đã trải qua cùng với những thăng trầm của lịch sử. Luật Nước được xây dựng và ngày càng hoàn thiện hơn với ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: từ cải cách và mở cửa với “Luật Nước” xây dựng (1978 - 1988) có nội dung chủ yếu: kiểm soát lũ, quản lý nguồn nước.
Giai đoạn 2: “Luật Nước” ban hành và sửa đổi (1988 - 2002): Nhà nước quản lý nguồn nước theo pháp luật, cơ sở hành chính được xác định rõ ràng.
Giai đoạn 3: “Luật Nước” từ 2002 đến nay: mục tiêu quản lý của Nhà nước là nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nước, toàn xã hội phải tiết kiệm nước cho một giai đoạn phát triển mới.
LTS: (Trình bày ở trên, dưới tít trang)
LTS: Trong những năm qua, công tác quản lý tài nguyên nước của Trung Quốc đã đạt được những kết quả thành công nhất định để bảo đảm cho hơn 1,4 tỷ dân có nước dùng trong công nghiệp, nông nghiệp. Việt Nam là nước láng giềng của Trung Quốc với lượng nước chiếm đến hơn 50% là bắt nguồn từ các con sông thượng nguồn ở các quốc gia khác. Do vậy, việc nghiên cứu chính sách, pháp luật về tài nguyên nước của Trung Quốc là điều cần thiết, để từ đó chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm lớn có ý nghĩa đối với chính sách, pháp luật về tài nguyên nước ở nước ta.