Gia đình chúng tôi luôn tâm niệm, rồi đây, khi có điều kiện, sẽ lập một phòng lưu niệm về chồng và cha mình. Khi đó chúng tôi sẽ có thể trưng bày các hiện vật giúp tái hiện cuộc đời hoạt động văn học và cách mạng của ông, đương nhiên trong đó có một góc liên quan đến quãng đời 14 năm cha tôi làm đại biểu Quốc hội, từ 1946-1960. Còn tạm thời, “Góc Quốc hội” này vẫn nằm lẫn trong các cặp tài liệu, các tập album, trên giá sách... bên cạnh các chủ đề khác như Văn hóa cứu quốc, báo chí, thư từ, cuộc sống gia đình...
Hiện vật đầu tiên, xét theo thời gian, là bức thư đề ngày 3.12.1945 của cha tôi gửi Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh, trong đó yêu cầu ông Chủ tịch “vui lòng ghi tên tôi vào danh sách những người ra ứng cử vào Quốc dân đại hội, kỳ Tổng tuyển cử 25 tháng Chạp 1945”. (Như sau này chúng ta biết, do công tác chuẩn bị không kịp, nên ngày Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được lui lại đến 6.1.1946). Trong quãng thời gian đó, cha tôi liên tiếp thực hiện các công việc tranh cử. Ngày 12.12.1945, ông viết Bức thư cùng nhân dân Bắc Ninh, trong đó, sau khi đã trình bày các công việc dự định sẽ làm khi ra tranh cử, ông kêu gọi: “Đứng trước nạn xâm lăng đe dọa cả vận mệnh nước nhà, đứng trước tương lai của riêng tỉnh Bắc chúng ta, chắc anh chị em sẽ quả quyết bỏ phiếu bầu cho chúng tôi”.
Đồng thời với bức thư nói trên, tiểu sử của ông cũng được công bố (cả hai văn bản đều được in trên giấy có nền đỏ hoặc xanh cho dễ nhận biết). Tờ in tiểu sử của cha tôi có đoạn: “Để phụng sự quốc gia một cách tích cực hơn nữa, năm 1943 ông vào hàng ngũ hội Văn hóa Cứu quốc tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam và cho sự đắc thắng của văn hóa mới”. Đặc biệt, ủy ban bầu cử tỉnh Bắc Ninh còn cho in những tờ ápphích cỡ lớn, khổ 50 x 65 cm, đăng lời hiệu triệu ủng hộ ông: “Đồng bào Bắc Ninh nhất định bầu cho NGUYỄN HUY TƯỞNG- người chiến sỹ cách mạng chân chính của nền Độc lập Việt Nam và của dân chúng”. Đây quả là một sự “đầu tư” rất lớn của chính quyền địa phương, vì như chúng ta biết, bấy giờ nước ta vừa trải qua nạn đói ghê gớm làm chết hàng triệu người và một trận lụt khủng khiếp nhấn chìm nhiều làng xã. Chị Ngô Thị Thanh Lịch, con gái nhà văn Ngô Tất Tố quê làng Lộc Hà, nay thuộc xã Mai Lâm, cùng huyện với nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, nhớ lại theo lời kể của cụ bà Ngô Tất Tố: Tờ ápphích ấy cũng được đưa về làng Lộc Hà. Để bà con đều dễ thấy, nó được đem ra đình làng, nơi đã từng diễn ra các cuộc cứu đói và bàn những việc hệ trọng sau cách mạng trong làng. Do không có hồ để dán, gỗ làm đình lại quá cứng, khó đóng đinh, nên người ta đã dùng lạt buộc tờ ápphích quanh một cây cột to ngay giữa đình làng. Bà con qua lại ngôi đình, thường xúm lại chỉ trỏ tờ ápphích, truyền miệng nhau mấy tiếng Nguyễn Huy Tưởng! (Chị Lịch sau cũng là đại biểu Quốc hội, Khóa IV, 1971-1975).
Còn nhiều hiện vật khác nữa, theo chúng tôi, cũng cần có vị trí xứng đáng trong “Góc Quốc hội” này. Một bức thư của Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Bắc Ninh gửi ông Nguyễn Huy Tưởng, Bí thư Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam, mời đến Tỉnh Bộ để trao đổi ý kiến về dự án Hiếp pháp. Một bức thư đã rách nát của công dân Hoàng Văn Hốt, một cử tri ở phố Yên Viên, phủ Gia Lâm, Bắc Ninh, đề đạt một số ý kiến gửi lên Quốc hội. Một công văn có chữ ký tay của cụ Trưởng ban Thường trực Quốc hội Nguyễn Văn Tố gửi các vị Đại biểu Quốc dân thông báo về tình hình đất nước sau ngày ký Hiệp định Sơ bộ 6.3.1946. Một công văn khác cũng do cụ Nguyễn Văn Tố ký cuối tháng 9.1946, thông báo về tình hình khẩn cấp và yêu cầu các vị đại biểu Quốc hội sẵn sàng khi lâm sự... (Cụ Tố sau này bị giặc Pháp bắt trong trận Việt Bắc và đã hy sinh ngày 7.10.1947). Danh sách này sẽ còn rất dài nếu kể đến các bài báo của cha tôi về Quốc hội, từ chuyến đi dự Quốc dân Đại hội Tân Trào tháng 8.1945 đăng trên Tiên Phong, bài trả lời phỏng vấn báo Cứu Quốc nhân dịp ông ra ứng cử Quốc hội Khóa I, đến bài tường thuật kỳ họp Quốc hội cuối năm 1953 thông qua luật Cải cách ruộng đất, người cày có ruộng... Và sẽ còn dài nữa nếu kể đến các bức ảnh ghép toàn cảnh các kỳ họp Quốc hội, các cuốn kỷ yếu dày dặn, trang trọng do Quốc hội soạn thảo để gửi tới các đại biểu. Trong đó có biết bao gương mặt, biết bao tên tuổi đã từng làm nên lịch sử vinh quang của Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa!
Tôi không phải là một nhà sử học để có thể đưa ra nhận xét về giá trị hơn kém của những tư liệu nói trên. Tôi cũng không có kiến thức về bảo tàng học để có thể xác định giá trị quý hiếm của từng thứ. Nhưng tôi biết chắc một điều rằng: Trong “Góc Quốc hội” tương lai ở phòng lưu niệm về nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, nếu như sẽ có một phòng lưu niệm như thế, vị trí trang trọng nhất phải được dành cho một hiện vật đặc biệt nhất. Hiện vật đặc biệt đó không lớn cũng không dày, trái lại, còn khá nhỏ về kích thước, và chính vì thế cần được tập trung vào như khi người ta “zoom” ống kính máy ảnh. Đó là tấm Giấy chứng minh mang số 162, do chính tay Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi ấy là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời ký ngày 29.2.1946, “chứng nhận ông Nguyễn Huy Tưởng là đại biểu tỉnh Bắc Ninh tại Toàn Quốc Đại Biểu Đại Hội”. Trên giấy chứng minh này có ảnh cha tôi, tấm ảnh tuy đã cũ vì năm tháng, nhưng trông rất trẻ.
Cùng với thời gian, “Góc Quốc hội” trong gia đình chúng tôi ngày một phong phú thêm, và ở vị trí trung tâm, trong tâm trí chúng tôi, luôn luôn là tấm giấy chứng minh có chữ ký của Bác Hồ, mềm mà dứt khoát!
Nguyễn Huy Thắng