Đọc sách: Không dành cho riêng ai

Có nhiều sách về cuộc chiến tranh chống ngoại xâm qua góc nhìn của các vị tướng lĩnh, qua tái hiện của các nhà văn nhiều thế hệ. Còn với “Được sống và kể lại”, cuộc chiến lớn lại được nhìn qua mắt một người lính bình thường. Một cuốn tự truyện thật sự dung dị và chân thực, gây xúc động vì cái hiện thực diễn ra hàng ngày trong đời người lính.

Đọc sách: Không dành cho riêng ai -0

Tác giả Trần Luân Tín từng là chiến sĩ Tiểu đoàn 18 thông tin, Sư đoàn 325, Quân đoàn 2. Cuốn sách mở đầu khi anh sinh viên Tín hai mươi mốt tuổi, đang là sinh viên Mỹ thuật ở Hà Nội. Đầu năm 1972, anh lên đường nhập ngũ, vào ngay chiến trường Quảng Trị, chiến đấu bảo vệ Thành cổ. Ngày 30.4.1975 anh có mặt trong những cánh quân tiến vào Sài Gòn.

Như vậy một người lính bé nhỏ bạch diện thư sinh, một người lính bình thường như mọi đồng đội của anh, chính là chứng nhân cho bốn năm cuối của cuộc chiến, bốn năm ác liệt ngập tràn xương máu. Đôi lúc, chen giữa những trang kể chuyện, tác giả đưa vào những dòng nhật ký của mình. Nhật ký phần nhiều là cảm xúc trong trẻo của người lính tràn đầy lý tưởng thời đó. Phần kể chuyện chen lẫn giọng tự sự, giọng tường thuật, như là có gì kể nấy, vì thế lại chân thật đến mức lay động được người đọc.

Trần Luân Tín kể lại tỉ mỉ từ những tháng ngày huấn luyện tân binh ở Hà Bắc. Rồi lên đường, xuyên qua tuyến lửa Bắc miền Trung, vào ngay Quảng Trị. Vào ngay những trận chiến đấu ác liệt bảo vệ Thành cổ. Anh là chiến sĩ thông tin, nhiệm vụ là đi rải dây liên lạc và bảo đảm cho đường dây thông suốt. Phải bò dưới những làn đạn dày đặc, dây đứt phải nối lại ngay. Anh chứng kiến những trận chiến khốc liệt, chứng kiến cả khi quân ta phải rút khỏi Thành cổ. Từ chiến trường Quảng Trị, anh đi cùng đơn vị qua đường 9, lên Trường Sơn, trong bốn năm tiến dần qua Huế, Đà Nẵng, đến Phan Rang, rồi qua cửa ngõ Sài Gòn tiến vào đúng ngày 30.4.1975.

Nói về chiến tranh, không thể không miêu tả những trận chiến và chết chóc. Lần đầu tiên anh lính ta nhìn thấy xác người ở gần làng Nhan Biều, một người lính Sài Gòn “dựa lưng vào vách công sự. Toàn bộ phần đầu sụt xuống ngực. Cái mũ sắt hất nghiêng bên vai, lộ ra một chút đỉnh sọ. Bộ quân phục chưa mục hết nên vẫn giữ được khung người không rã ra. Hai ống xương chân mốc xanh cắm trong đôi bốt da cao nghệu. Người ngồi giữa trận mạc tan hoang, như là đang chiêm nghiệm” (trang 118).

Rồi cũng ngay sau đó, anh thấy đồng đội chỉ còn là xương thịt, thậm chí tan biến hoàn toàn. Mến đang sốt nhưng vẫn bật dậy, tranh phần mang cuộn dây ra cho đồng đội trong khi pháo địch đang trút xuống. “Chợt nghe tiếng Sồi gọi: - Anh Tín ơi - Tiếng của nó ở ngay trên miệng hầm, nghe lạ đến mức cái đầu tôi tự nhiên tê đi, phải lắc một cái thật mạnh. Sồi gần như rơi xuống hầm, miệng lẩm bẩm:

- Nguyên một quả pháo…

Tôi giật mình:

- Cái gì, Mến đâu?

- Nguyên một quả pháo… không còn một tí gì…” (trang 182).

Lần khác, hai người lính đang đi kiểm tra đường dây thì Tín bị đau bụng. Nhờ dừng lại mấy phút giữa đường mà thoát được một trận bom. Mười hai quả bom tấn trút xuống ngay trước mặt. Họ chỉ đi nhanh thêm mấy phút là rơi vào giữa túi bom (trang 194).

Vào đến Long Thành, cửa ngõ Sài Gòn rồi, chỉ mấy ngày trước chiến thắng, đồng đội trẻ tên là Hội hy sinh: “Tôi thả bịch ba lô, ngồi xệp xuống, đưa tay đẩy từng cái mi mắt đã bất động cho nhắm lại. Mới hồi nãy nó còn nói, giọng xứ Thanh rất hiền: “Vài ngày nữa anh em mình được đi dạo phố rồi” (trang 335).

Ngày 26.4, bốn ngày trước khi vào đến Sài Gòn, anh Tín đã trèo lên một chiếc xe tăng, nhưng không đủ chỗ, bị ra lệnh nhảy xuống. Ngay sau đó chiếc xe tăng bị bắn cháy trước mắt anh.

Trưa 30.4.1975, thời điểm chính quyền Sài Gòn đầu hàng, Trần Luân Tín phóng xe máy vào Sài Gòn giữa những đoàn xe ta thì bất ngờ bị một loạt đạn của tàn quân quét ngay trước mặt. Anh chỉ kịp lăn xuống đường và thoát nạn. Có những người lính đã hy sinh vào thời khắc chiến thắng như thế.

Không chỉ có người lính mới chịu nhiều hy sinh. Tác giả khắc họa cả những cái chết của dân thường thật ám ảnh: ông già là người duy nhất còn ở lại trong làng Nhan Biều, thỉnh thoảng ông đi cùng một con chó ra giếng lấy nước. Người lính định bụng hôm nào đó sẽ nói chuyện với ông. Nhưng hôm đó ông già vừa lấy xong nước, thì con chó dính một mảnh pháo bầy. “Ông già đã kịp nằm ụp trên đất, đáng lẽ phải nhanh chóng bò tới cái hầm gần nhất để chui vào, thì ông lại nhoài về phía con chó…

Bàn tay ông già tóm được cái đuôi con chó, ông kéo nó về phía mình. Không kịp, làn pháo bầy đã lùi tới nơi. Tôi rụt đầu xuống tránh những cú đạn đập xuống ngay cạnh hầm. Nháy mắt, pháo chuyển làn ra xa, tôi vụt lên thì không còn gì nữa, cả ông già, cả con chó vện nhỏ bé” (trang 199).

Có những khoảnh khắc giữa hai trận đánh, cái tình đồng đội với nhau thật bình dị: sau khi bộ đội rút khỏi Thành cổ Quảng Trị, lính thông tin về đến làng Nhan Biều, anh chàng Hạnh vốn con nhà tiểu thương kéo trong góc hầm ra một cái hộp đựng đạn đại liên của Mỹ, nhưng bên trong đầy rau má. Giữa chiến trường khô khốc, bom đạn dày đặc, người lính phải tốn công sức mới có thể hái được bằng ấy rau cho đồng đội ngồi nhai và dưỡng sức (trang 189). Hương vị rau má gợi nhớ về một thời bình yên. Còn trên cao điểm Cao Hy, um tùm những cây ớt chỉ thiên bên bờ suối. Ớt do lính Hàn Quốc trồng, quả rụng xuống mà tiếp tục mọc ra cây (trang 95). Vài chi tiết như vậy giữa chiến trận cũng khiến cho lòng lắng lại.

Ghi lại những trận chiến, nhưng cuốn sách cũng tái hiện được chút ít đời sống tinh thần, thậm chí là quan điểm về một thời. Anh Tín tuyên huấn sư đoàn có lần hỏi chuyện một người lính là tù binh. Họa sĩ trẻ vừa hỏi chuyện vừa ký họa chân dung người tù. Chuyện ký họa về sau bị đưa ra kiểm điểm. Có viên thượng úy phê bình: “Từ cổ chí kim chỉ có các bậc vĩ nhân, các lãnh tụ, hoặc là anh hùng chiến sĩ cách mạng mới được vẽ chân dung thôi. Vẽ chân dung địch là sai quan điểm” (trang 261). Nhưng cũng có một viên chỉ huy nói lại: “Đấy chỉ là lấy tài liệu thôi. Nói là vẽ chân dung thì thành ra vấn đề nặng nề mất rồi” (trang 262).

Hạnh là con nhà buôn nhỏ, Sồi là nhà nông. Cuộc tranh luận giữa hai anh lính này thể hiện quan điểm của xã hội lúc đó, nhưng bây giờ vẫn còn đó trong quan niệm của nhiều người:

“- Ai lại không biết, không lừa thì lấy đâu ra lời với lãi…

- Công sức người ta bỏ ra thì phải có lãi chứ.

- Thôi ông ơi… ăn người thì có.

- Ai chả phải ăn. Làm thì phải ăn chứ.

- Tôi nói ông nghe. Như thế không gọi là làm nhé. Người ta cày vã ra còn chưa có mà ăn. Ông chỉ bỏ ra tí nước bọt mà lại được phè phỡn” (trang 63).

Ngày chiến thắng không chỉ có reo hò và cờ hoa. Tác giả kể về những ngày đầu tiên của người lính chiến thắng. “Nhiều đêm tôi ngồi rất lâu bên cái mặt bàn gỗ, hút rất nhiều thuốc… Cứ giật mình. Leo lên giường, vừa chạm vào giấc ngủ thì giật tung người lên. Lại mò xuống sàn ngồi.

Tôi chưa già để loay hoay với quá khứ, mà như bị đẩy vào tình trạng của kẻ mộng du. Có một sự nhớ thương kỳ lạ của người chết lộn vào trong lòng tôi. Nhớ thương người sống” (trang 376).

Tác giả xoáy vào tận chiều sâu nội tâm của chính anh. Giây phút vui tột cùng sau chiến trận cũng là lúc người chết nhập vào mình, để nhớ về người sống và ngày còn sống. Để khắc khoải trộn lẫn hạnh phúc và đau thương.

Được sống và kể lại trải ra trên một diện rộng của chiến trường, khắc họa chân dung những người lính, kể thật tỉ mỉ và sinh động về những sự kiện hào hùng lẫn bi thương. Sách kết lại mà vẫn còn có những số phận để ngỏ: anh bạn Sồi nông dân, anh lính Hạnh tiểu thương, cô thông tin quê ở cầu Gồ, Hà Bắc đêm đêm trong ca trực kể chuyện cho anh Tín ở đầu dây bên kia.

Chiến tranh ly tán, nhiều đồng đội chỉ gặp trong cuộc chiến, và sau chiến tranh hoàn toàn không có tin tức. Nhưng tâm lý người đọc thì vẫn muốn biết về số phận của họ.

Nhà điêu khắc Trần Luân Tín dồn trút những điều đã trải trong chiến trận vào một cuốn sách để đời. Không chỉ cho anh và không chỉ như “mục đích giản dị ban đầu là kể cho hai đứa con của mình nghe”. Cuốn tự truyện thực sự lay động được cảm xúc của người đọc.

Hồ Anh Thái

------

* Được sống và kể lại, hồi ức của Trần Luân Tín, NXB Văn hóa - Văn nghệ tái bản 2019.

Văn hóa

Những kỷ vật đi cùng năm tháng được gia đình gìn giữ cận thận
Văn hóa

Gặp lại người may cờ Tổ quốc cho chiến dịch năm xưa ở Tây Nguyên

Chúng tôi gặp bà Nguyễn Thị Ngọc Lan trong những ngày cuối tháng Tư, khi khắp nơi trên cả nước đang hướng về kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30.4.1975 - 30.4.2025). Trong căn nhà nhỏ trên đường Nguyễn Viết Xuân, TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, người phụ nữ đã ngoài 80 tuổi tiếp chuyện bằng giọng nói nhỏ nhẹ nhưng gương mặt ánh lên sự rắn rỏi, kiêu hãnh khi nhắc về những tháng năm thanh xuân cống hiến cho cách mạng.

Tác giả tại bờ bắc bến sông Thạch Hãn - Nơi từng diễn ra các đợt trao trả tù binh chiến tranh theo một điều khoản Hiệp định Paris 1973
Văn hóa - Thể thao

Thạch Hãn chảy mãi khúc khải hoàn ca

Tròn nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày đất nước trọn niềm vui, Bắc - Nam sum họp một nhà trong hòa bình, thống nhất; những ngày tháng ấy, hàng triệu người con đất Việt mừng vui, vất vả ngược xuôi vượt sông Thạch Hãn để vào Nam hay ra Bắc, tìm lại người thân yêu sau bao năm dài chiến tranh, ly tán. Làm sao quên dòng sông ấy từng là giới tuyến, gánh vác sơn hà, xã tắc trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc cho đến ngày đại thắng mùa Xuân năm 1975, non sông thu về một mối.

GS.TS PHẠM HỒNG TUNG (Đại học Quốc gia Hà Nội)
Văn hóa - Thể thao

Tinh thần, cốt cách của người Việt Nam

Theo GS.TS. PHẠM HỒNG TUNG (Đại học Quốc gia Hà Nội), thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một thành quả vĩ đại của cách mạng Việt Nam, khẳng định ý chí thống nhất đất nước không gì lay chuyển, khát vọng hòa bình cháy bỏng của Nhân dân Việt Nam, được hun đúc bởi truyền thống chống ngoại xâm từ trong lịch sử đến ngày nay.

Cao cả đức hy sinh - Mạch nguồn dựng xây đất nước
Văn hóa - Thể thao

Cao cả đức hy sinh - Mạch nguồn dựng xây đất nước

Đại thắng mùa Xuân 1975 đã khắc ghi những trang sử hào hùng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tinh thần hy sinh cao cả ấy - vì nước quên thân, vì dân quên mình - đã trở thành mạch nguồn bất tận, hun đúc niềm tin và khát vọng vươn mình của dân tộc ta. Hôm nay, trong hào khí tháng Tư lịch sử, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tiếp nối mạch nguồn ấy bằng cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước - dám hy sinh lợi ích cá nhân vì một Việt Nam phồn vinh và thịnh vượng.

"Binh chủng đặc biệt" lay động cả non sông
Văn hóa - Thể thao

"Binh chủng đặc biệt" lay động cả non sông

Trên thế giới, hiếm có dân tộc nào sở hữu thứ "vũ khí" bảo vệ Tổ quốc độc đáo như vậy. "Vũ khí" ấy không phải gươm giáo, đạn bom, mà là những vần thơ thấm đẫm máu và hoa, là khúc ca hùng tráng át tiếng bom đạn, là thước phim lay động trái tim, là nét vẽ kiên cường trên trang giấy… Tất cả đã tạo nên sức mạnh tinh thần phi thường, đủ sức lấn át mọi vũ khí, hun đúc ý chí, tôi luyện quyết tâm đánh thắng kẻ thù, giành lại tự do cho Tổ quốc.

Trải qua chiến tranh càng thấy giá trị của hòa bình
Văn hóa - Thể thao

Trải qua chiến tranh càng thấy giá trị của hòa bình

Trưa ngày 30.4.1975, quân ta tiến vào Sài Gòn, chiếm Dinh Độc Lập. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh lên đài phát thanh Sài Gòn tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. “Khi Đài Tiếng nói Việt Nam vừa đưa dứt thông tin đó, chúng tôi nhảy cẫng lên ôm chầm lấy nhau, nước mắt lưng tròng. Đó là những giọt nước mắt của hạnh phúc”...

Vòng tay lớn mãi để nối sơn hà...
Văn hóa - Thể thao

Vòng tay lớn mãi để nối sơn hà...

Thời gian có làm phai mờ dấu vết chiến tranh nhưng ký ức hào hùng vẫn in đậm trong trí nhớ những người có mặt trong thời khắc lịch sử 50 năm trước. Nhắc nhớ câu chuyện ấy tiếp thêm ngọn lửa truyền cảm hứng, biến niềm tin và tự hào thành động lực dựng xây Tổ quốc hôm nay.

“Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” - Khát vọng và niềm tin
Văn hóa - Thể thao

“Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” - Khát vọng và niềm tin

Bộ phim “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” chứa đựng bề dày lịch sử đất nước và con người Việt Nam một thời; số phận của các nhân vật mang chiều rộng về không gian, chiều dài về thời gian, gắn bó với số phận của dân tộc trong mọi biến cố lớn lao tại nơi giới tuyến chia cắt hai miền Nam - Bắc đầy khốc liệt.

Thống nhất nước nhà - con đường sống của Nhân dân ta
Văn hóa - Thể thao

Thống nhất nước nhà - con đường sống của Nhân dân ta

Ngày 6.7.1956, trong thư gửi đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của Nhân dân ta”. Ngày 30.4.1975, điều này đã trở thành hiện thực, thành cơ sở đầu tiên của kỷ nguyên độc lập - tự do trong 50 năm qua và tiếp tục trở thành nền tảng vững chắc cho kỷ nguyên mới.

50 năm thống nhất đất nước, vẹn nguyên ký ức ngày giải phóng
Văn hóa

Vẹn nguyên ký ức ngày giải phóng

50 năm đã trôi qua nhưng ký ức về ngày nối non sông liền một dải vẫn vẹn nguyên trong tâm trí những người đã chiến đấu vì đất nước, trong đó có Đại tá Trương Quang Siều, nguyên Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình.

Chính thức ra mắt sách “Con đường tương lai”
Văn hóa

Chính thức ra mắt sách “Con đường tương lai”

Ngày 29.4, tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục và Môi trường cùng một số doanh nghiệp tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Con đường tương lai” - Tập 1 của nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn.

Nhân dân Sài Gòn - Gia Định kéo về Dinh Độc Lập chào mừng Quân giải phóng
Văn hóa - Thể thao

Nghệ thuật tạo và chớp thời cơ

Nghệ thuật tạo thời cơ, chớp thời cơ là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975; thay vì 2 năm như kế hoạch đã đề ra, chúng ta chỉ mất 55 ngày đêm thu non sông về một mối.

Ký họa sống động những ngày tiến về Sài Gòn
Văn hóa - Thể thao

Ký họa sống động những ngày tiến về Sài Gòn

Chứng kiến sự gian khổ của bộ đội ta trong những ngày kháng chiến và cả niềm hân hoan của ngày thống nhất, ông Trần Mạnh Tuấn, một họa sĩ không chuyên, nguyên phóng viên báo Pháp luật Việt Nam, đã thực hiện các bức ký họa bằng bút sắt sinh động ghi lại lịch sử không thể nào quên của dân tộc.