Cân nhắc thận trọng về tính khả thi

ĐBQH Cao Thị Xuân(Thanh Hóa)

Về tính khả thi của thời điểm chuyển đổi phương thức quản lý bằng sổ hộ khẩu sang quản lý bằng mã số định danh trong dự án Luật Cư trú (sửa đổi), tôi hoàn toàn ủng hộ quyết tâm cải cách rất đột phá của Chính phủ trong thay đổi phương thức quản lý cư trú, thể hiện qua 5 quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật nêu trong Tờ trình. Đây là bước đi mạnh mẽ thể chế hóa Nghị quyết 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó đề ra mục tiêu đến năm 2025 “Cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội”.

ĐBQH Cao Thị Xuân (Thanh Hóa)
ĐBQH Cao Thị Xuân (Thanh Hóa)

Tuy nhiên, việc lấy thời điểm Luật có hiệu lực - ngày 1.7.2021 - tức là còn khoảng một năm nữa để chấm dứt giá trị sử dụng của Sổ hộ khẩu, sổ tạm trú theo quy định tại khoản 3 Điều 42 dự thảo Luật lại đặt ra rất nhiều vấn đề cần cân nhắc thận trọng về tính khả thi và khả năng dự liệu, xử lý những vấn đề phát sinh liên quan đến quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người dân.

Bảo đảm quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người dân

Theo Báo cáo của Bộ Công an thì đến thời điểm này mới cấp được 18 triệu số định danh; đến tháng 6.2021, trong thời gian chỉ 1 năm sẽ hoàn thành cấp tiếp 80 triệu số định danh còn lại. Mặc dù Bộ Công an có nêu rõ là đã thu thập được hơn 80 triệu phiếu thông tin dân cư nhưng chính những khó khăn được nêu ra trong Báo cáo đánh giá tác động bổ sung khiến tôi cho rằng đây là áp lực rất lớn, khó khả thi.

Bởi, thứ nhất, quản lý bằng phương thức điện tử là phương thức hoàn toàn mới, đòi hỏi cần có thời gian đủ để tập huấn, xây dựng năng lực của đội ngũ vận hành hệ thống quản lý, nhất là khi dự thảo Luật đi theo hướng chuyển giao thẩm quyền xuống cấp xã, coi lực lượng công an xã là chủ lực để thực hiện nhiệm vụ này. Bên cạnh đó, việc xác lập và thông báo số định danh là công việc cần nhiều thời gian để kiểm tra, đối soát, đảm bảo sự chính xác.

Thực tiễn cho thấy, việc xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú đã được quy định ngay từ Luật Cư trú năm 2006, cách đây gần 15 năm; việc đầu tư xây cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được triển khai từ năm 2017, nhưng đến nay cũng mới chỉ định danh được 18 triệu người. Quá trình thí điểm những năm qua cũng mới chỉ thực hiện ở 4 thành phố lớn và 12 tỉnh chủ yếu ở khu vực đồng bằng sông Hồng, điều kiện khá thuận lợi. Việc triển khai mở rộng ra các tỉnh còn lại, đặc biệt khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo đầy những khó khăn, thách thức cả về điều kiện đi lại, năng lực ứng dụng công nghệ thông tin, tập quán, lối sống, nhận thức của nhân dân mà chỉ dự trù quỹ thời gian 1 năm là rất khó khả thi. Đơn giản nhất như việc lập xong số định danh, để thông báo được tới đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa thì thời gian vật chất, nhân lực cũng cần hơn rất nhiều so với khu vực đồng bằng, có nơi cán bộ, chiến sĩ phải trực tiếp đến với dân vì còn đồng bào “đi ban đêm sợ mất trộm, đi ban ngày sợ mất thời gian”.

Thứ hai, Báo cáo của Bộ Công an cũng nêu khó khăn “hệ thống hạ tầng kỹ thuật còn yếu, sự tiếp cận, nhận thức của nhân dân về công nghệ thông tin còn chưa đồng đều”, trong khi việc dồn tụ trách nhiệm xuống cấp xã cũng đòi hỏi phải đầu tư hạ tầng kỹ thuật công nghệ không thể chỉ trong thời gian ngắn. Theo mục tiêu đề ra trong Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị (năm 2019) thì chúng ta phấn đấu đến năm 2025 có Internet băng thông rộng phủ kín 100% các xã. Do vậy, cần tính toán rất kỹ và có những đảm bảo chắc chắn đối với việc có thể vận hành cả hạ tầng kỹ thuật, công nghệ và nhân lực sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư vào năm 2021.

Thứ ba, tôi muốn nêu lại một thực tiễn lập pháp của nhiệm kỳ trước: năm 2014, tại Kỳ họp thứ Bảy, Quốc hội Khóa XIII phải khẩn trương sửa 1 điều của Luật Quốc tịch theo quy trình rút gọn để thay đổi chính sách về thời hạn đăng ký giữ quốc tịch đối với người Việt Nam ở nước ngoài, sau 5 năm thực hiện không khả thi. Từ thực tiễn này, tôi đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc kỹ lưỡng, toàn diện về thời điểm có thể vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bỏ sổ hộ khẩu để tránh tình trạng Quốc hội khóa mới phải sửa đổi Luật để điều chỉnh thời hạn.

Cân nhắc kỹ thời điểm nào bỏ Sổ hộ khẩu là hợp lý nhất?

Về dự liệu xử lý những vấn đề tác động đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân khi thay đổi phương thức quản lý, thay đổi phương thức quản lý cư trú là chính sách tác động tới mọi người dân, liên quan mật thiết đến việc bảo đảm quyền công dân và quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tuy nhiên tôi thấy Tờ trình cũng như Báo cáo giải trình bổ sung mới chỉ làm rõ sự thay đổi phương thức quản lý về phía cơ quan quản lý cư trú, chưa thực sự rõ những đòi hỏi cần thay đổi từ phía người dân, cũng như các cơ quan nhà nước có liên quan khác, để từ đó dự liệu biện pháp xử lý những vấn đề phát sinh liên quan đến bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân trong điều kiện còn nhiều văn bản pháp luật, nhiều chính sách hiện hành vẫn đang gắn với sổ hộ khẩu. Tôi đánh giá cao cơ quan thẩm tra đã rà soát, xây dựng bản Phụ lục gồm 27 thủ tục hành chính hiện hành đang quy định trong 5 nghị định và 15 thông tư có yêu cầu Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú, nhưng tôi thấy rằng vẫn còn những văn bản khác chưa được rà soát hết. Ở đây, tôi xin bổ sung thêm một số thủ tục hành chính liên quan đến việc thực hiện chính sách xã hội, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đó là: Thủ tục hỗ trợ ăn trưa đối với trẻ em mẫu giáo ở khu vực đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trẻ trong hộ nghèo, cận nghèo quy định tại Nghị định 06 (năm 2018); thủ tục ưu tiên tuyển sinh và xét duyệt, chi trả kinh phí hỗ trợ học tập đối với học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người quy định tại Nghị định 57 (năm 2017); thủ tục hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn quy định tại Nghị định 116 (năm 2016); thủ tục dự tuyển vào trường phổ thông dân tộc nội trú quy định tại Nghị định 01 (năm 2016); thủ tục xác định mức độ khuyết tật do Hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện quy định tại Thông tư 01 năm 2019 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; thủ tục chứng minh điều kiện để được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội quy định tại Nghị định 100 năm 2015.

Từ một vài ví dụ trên, tôi thấy rằng để thực hiện thành công cải cách đột phá trong thay đổi phương thức quản lý cư trú không chỉ là trách nhiệm của riêng hệ thống quản lý cư trú, mà liên quan, liên thông với trách nhiệm của rất nhiều ngành, nhiều cơ quan cung ứng dịch vụ công để làm khi vận hành phương thức quản lý mới, nhất là giai đoạn ban đầu không gây ra những xáo trộn, ảnh hưởng, gián đoạn đến quyền lợi và cuộc sống bình thường của người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số và những người yếu thế. Tôi đề nghị Chính phủ khẩn trương chỉ đạo các bộ, ngành rà soát tổng thể và dự liệu toàn diện biện pháp xử lý những vấn đề phát sinh liên quan đến bỏ sổ hộ khẩu, từ đó mới có cơ sở chắc chắn để trình Quốc hội quyết định xem thời điểm nào bỏ Sổ hộ khẩu là hợp lý nhất.

Đơn giản hóa thủ tục, giảm giấy tờ cho dân

Về thủ tục hành chính, qua nghiên cứu dự thảo Luật, tôi thấy rằng còn nhiều vấn đề có thể đơn giản hóa thủ tục hành chính một cách mạnh mẽ hơn, liên thông trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành để giảm gánh nặng cho người dân.

Thứ nhất, thay đổi phương thức quản lý bằng cơ sở dữ liệu điện tử trên môi trường mạng, nhưng cả dự thảo Luật cũng như dự thảo các văn bản quy định chi tiết không có quy định nào đề cập đến việc thực hiện thủ tục hành chính trực tuyến, để người dân có thể chủ động tự truy cập, tra cứu, trích xuất thông tin về tình trạng cư trú của cá nhân mình phục vụ cho giao dịch dân sự. Hầu hết các thủ tục hành chính về đăng ký thường trú, tạm trú về phía người dân chưa có những thay đổi đáng kể, vẫn là việc phải chuẩn bị các loại giấy tờ gồm phiếu báo, bản khai, giấy tờ chứng minh quan hệ nhân nhân, giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp, vẫn là việc người dân phải trực tiếp mang đến cơ quan có thẩm quyền thụ lý, chờ đợi trả thông báo kết quả giải quyết. Tức là về cơ bản thủ tục vẫn như hiện nay, vẫn đặt nặng trách nhiệm của người dân, đặt niềm tin vào hàng chục loại giấy tờ được quy định tại Điều 22, Điều 23 dự thảo Luật.

Thứ hai, tôi rất tán thành ý kiến góp ý mang tính phát hiện của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc dự thảo Luật dường như đang bổ sung, tăng thêm một số thủ tục không cần thiết như: quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 21 tăng thêm thủ tục phải có xác nhận của UBND cấp xã về điều kiện diện tích bình quân khi đăng ký thường trú; quy định tại điểm e, Khoản 2 Điều 22 về đòi hỏi người khuyết tật, trẻ em, người không nơi nương tựa ở trong cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo phải có giấy xác nhận cho đăng ký thường trú của người đứng đầu cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, trong khi việc xác nhận này hoàn toàn có thể ghép vào Tờ khai cho đơn giản; quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 22 về việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn đăng ký thường trú ở Việt Nam đã phải có văn bản đồng ý cho giải quyết thường trú của Cục Quản lý xuất nhập cảnh, lại còn phải kèm thêm Giấy giới thiệu của Phòng Quản lý xuất nhập cảnh thuộc Công an tỉnh, thành phố, trong khi đây là những cơ quan có thể liên thông với nhau. Đề nghị rà soát lại các quy định này để đơn giản hóa thủ tục, giấy tờ cho người dân, để làm sáng lên hình ảnh của một nền hành chính phục vụ, hiện đại, vì dân.

Xây dựng luật

toàn cảnh phiên họp
Xây dựng luật

Hỗ trợ tốt nhất cho người dân tại các khu vực khai thác khoáng sản

Thảo luận về dự thảo Luật Địa chất và khoáng sản, các đại biểu Quốc hội thống nhất, cần tạo căn cứ pháp lý để bắt buộc tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản thực hiện trách nhiệm hỗ trợ kinh phí đầu tư nâng cấp, duy tu, xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình bảo vệ môi trường trên địa bàn. Quy định này nhằm hỗ trợ tốt nhất cho người dân tại các khu vực khai thác khoáng sản.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành phiên họp. Ảnh : Lâm Hiển
Quốc hội và Cử tri

Bảo đảm luật này "mở ra" nhưng không "khép lại" ở luật khác

Cho ý kiến về việc tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược, một số ý kiến tại Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành với quy định cụ thể tại dự thảo Luật về quy mô dự án đầu tư mới trong phát triển công nghiệp dược được áp dụng ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt; đồng thời, đề nghị, Chính phủ xử lý vấn đề này tại dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) để bảo đảm luật này mở ra nhưng không khép lại ở luật khác.

Toàn cảnh phiên thảo luận tại Tổ 6
Thời sự Quốc hội

Nâng hạn tuổi cao nhất của sĩ quan phục vụ tại ngũ là cần thiết

Chiều 28.10, thảo luận về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, các ĐBQH Tổ 6 (gồm Đoàn ĐBQH các tỉnh Hà Giang, Bình Định, Sóc Trăng, Bạc Liêu) đều thống nhất với tờ trình của Chính phủ và thẩm tra báo cáo về dự án luật. Song, các đại biểu đề nghị xem xét điều chỉnh tuổi nghỉ hưu của sĩ quan nữ cấp bậc quân hàm Đại tá để phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội…

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành phiên họp
Xây dựng luật

Bảo đảm việc tham gia bảo hiểm trách nhiệm được thực hiện nghiêm túc, công bằng

Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) lần này đã bổ sung quy định bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Theo các đại biểu Quốc hội, cần rà soát, đánh giá kỹ về tính hiệu quả xã hội khi quy định đây là loại bảo hiểm bắt buộc; đồng thời, quy định rõ trách nhiệm của công chứng viên hoặc tổ chức hành nghề công chứng trong trường hợp số tiền bồi thường từ bảo hiểm không đủ chi trả cho thiệt hại của khách hàng.

quang cảnh phiên họp
Xây dựng luật

Bảo đảm minh bạch, đồng thuận trong quá trình triển khai quy hoạch

Dự thảo Luật quy định thời gian lấy ý kiến cộng đồng dân cư có liên quan về quy hoạch trong vòng 30 ngày, nhưng chưa quy định về việc tiếp thu, phản hồi ý kiến như thế nào, vì vậy có ý kiến đề nghị, ban soạn thảo quy định rõ cơ chế tiếp nhận, xử lý phản hồi lại cho cộng đồng dân cư. Đồng thời, bổ sung quy định về việc tổ chức các cuộc đối thoại công khai giữa các cơ quan chức năng và người dân trong trường hợp có tranh chấp hoặc bất đồng ý kiến về quy hoạch, để bảo đảm minh bạch và đồng thuận, thuận lợi hơn trong quá trình triển khai quy hoạch.

Bổ sung thêm nhóm đối tượng vùng an toàn khu được ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế
Thời sự Quốc hội

Bổ sung thêm nhóm đối tượng vùng an toàn khu được ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế

Chiều 24.10, thảo luận tại Tổ 9 (Đoàn ĐBQH các tỉnh: Phú Yên, Hòa Bình, Quảng Ninh, Bến Tre) về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, một số đại biểu đề nghị, cần bổ sung quy định người dân sinh sống tại các xã an toàn khu cách mạng và các xã trọng điểm về quốc phòng được ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế. Cùng với đó, cần đánh giá cụ thể về khả năng đáp ứng và cân đối của quỹ bảo hiểm y tế.

Phó Trưởng Đoàn chuyên trách phụ trách Đoàn ĐBQH tỉnh Hòa Bình Đặng Bích Ngọc
Xây dựng luật

Rõ trách nhiệm để xử lý các rủi ro, rào cản

Đóng góp ý kiến tâm huyết tại Hội nghị khảo sát, lấy ý kiến góp ý đối với dự thảo Luật Điện lực (sửa đổi) của Đoàn ĐBQH tỉnh Hòa Bình mới đây, liên quan đến các quy định về đấu thầu, có đại biểu cho rằng, việc rõ ràng trong các quy định pháp lý về đấu thầu, đấu giá hay cụ thể trách nhiệm của chủ đầu tư khi tham gia vào các dự án điện vô cùng quan trọng. Vì vậy, cần làm rõ được trách nhiệm để xử lý các rủi ro, những rào cản, đặc biệt là rào cản liên quan đến hành lang pháp lý.

Việc bổ sung quy định trong Luật Điện lực bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng giữa các đơn vị điện lực
Xây dựng luật

Yêu cầu xuất phát từ thực tiễn

Sau gần 20 năm triển khai thi hành, Luật Điện lực hiện hành cần thiết phải sửa đổi, bổ sung, nhằm đáp ứng mục tiêu triển khai các chính sách của Đảng đối với lĩnh vực năng lượng nói chung, điện lực nói riêng, đáp ứng mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.

Trọng tâm sửa đổi Luật Điện lực là điều chỉnh giá điện theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước
Xây dựng luật

Bảo đảm những mục tiêu quan trọng

Dự án Luật Điện lực (sửa đổi) được xây dựng với mục đích hoàn thiện quy định pháp luật về điện lực, phù hợp với quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, luật hóa định hướng chủ trương, chính sách về đổi mới cơ chế, chính sách, phát triển thị trường năng lượng đồng bộ, liên thông, hiện đại và hiệu quả; phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa.

Toàn cảnh phiên họp
Xây dựng luật

Tháo gỡ vướng mắc, nhưng phải đồng bộ với các luật liên quan

Tại Phiên họp thứ 38 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, một số ý kiến tán thành với đề xuất của Chính phủ sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước theo hướng cho phép các bộ, ngành và địa phương chủ động bố trí kinh phí từ chi thường xuyên cho các dự án ngoài kế hoạch đầu tư công trung hạn, nhưng phải rà soát để bảo đảm đồng bộ với các luật liên quan.

Trưởng Ban Dân nguyện Dương Thanh Bình, Trưởng Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phát biểu tại cuộc làm việc
Xây dựng luật

Chủ động phòng ngừa phát sinh khiếu kiện phức tạp

Làm việc với UBND tỉnh Nghệ An về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội lưu ý, tỉnh cần tiếp tục tập trung chỉ đạo giải quyết các vụ việc khiếu kiện phức tạp, triển khai các biện pháp phòng ngừa, tránh để phát sinh thêm vụ việc khiếu kiện phức tạp, kéo dài, thực hiện chuẩn bị kỹ lưỡng đối với mỗi dự án đầu tư, xây dựng.

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long phát biểu tại phiên họp
Xây dựng luật

Thực hiện tốt hơn việc kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật

Nguyên nhân của việc chậm ban hành văn bản quy định chi tiết là bởi số lượng nhiều, có những văn bản nội dung khó, đã được bàn thảo nhiều lần nhưng chưa có giải pháp. Trả lời chất vấn tại Phiên họp thứ 36 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết, thời gian tới, một trong những giải pháp đặt ra là sửa đổi, bổ sung Quy chế làm việc của Chính phủ theo hướng quy định sát sao hơn và đôn đốc thực hiện tốt hơn quy trình giữa các cơ quan trình và Văn phòng Chính phủ.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải phát biểu chỉ đạo tại cuộc làm việc của Đoàn giám sát với Chính phủ
Xây dựng luật

Do quy định pháp luật hay quá trình thực hiện?

Tại cuộc làm việc với Chính phủ về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2030”, các thành viên Đoàn giám sát của Quốc hội đề nghị, cần làm rõ vướng mắc trong quản lý thị trường bất động sản, phát triển nhà ở xã hội hiện nay do quy định pháp luật hay quá trình thực hiện?

Trao quyền chủ động hơn cho công đoàn trong công tác cán bộ
Xây dựng luật

Trao quyền chủ động hơn cho công đoàn trong công tác cán bộ

Tại phiên thảo luận tổ 4, Đợt 1, Kỳ họp thứ Bảy, Quốc hội Khóa XV vừa qua về Dự thảo Luật Công đoàn (sửa đổi), các đại biểu nhất trí tán thành sự cần thiết sửa đổi Luật Công đoàn 2012; đồng thời, nhấn mạnh cần trao quyền chủ động hơn cho tổ chức công đoàn trong công tác cán bộ để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ đại diện, bảo vệ cho người lao động tại doanh nghiệp. Bởi hiện nay, cán bộ công đoàn tại công đoàn cơ sở đều hoạt động kiêm nhiệm và do người sử dụng lao động trả lương. 

Bài 3: Vì cuộc sống, dẫn dắt và kiến tạo
Xây dựng luật

Bài 3: Vì cuộc sống, dẫn dắt và kiến tạo

Vì cuộc sống, dẫn dắt và kiến tạo chính sách phát triển của đất nước và hành động quyết liệt trong hoạt động lập pháp mang lại hiệu lực thực sự cho cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân. Đấy là hình ảnh sinh động của Quốc Khóa XV đã đi qua nửa chặng đường, luôn theo sát sự lãnh đạo của Đảng, đồng hành cùng Chính phủ, vì Nhân dân, phản ánh kịp thời ý chí, nguyện vọng của Nhân dân trong mỗi quyết sách; tiếp bước chủ động đổi mới, sáng tạo, đột phá trong hoạt động của Quốc hội; nâng tầm vóc của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; rời xa tính hình thức; quyết liệt và tham gia sớm, sâu, thực chất trong xây dựng và quyết định chính sách pháp luật; góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.

Bài 2: Không “bắc nước sôi chờ gạo người"
Xây dựng luật

Bài 2: Không “bắc nước sôi chờ gạo người"

Không “bắc nước sôi chờ gạo người” là tinh thần chủ động, kiên quyết trong công tác lập pháp mà Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhắc nhở các cơ quan của Quốc hội. Nó cũng chính là bước đổi mới công tác lập pháp kế thừa thành quả qua các nhiệm kỳ, trong đó, đổi mới công tác thẩm tra có vai trò then chốt. Nhưng để có bước chuyển biến về chất cần có tư duy mới, đặt đúng vị thế, nhiệm vụ của cơ quan thẩm tra. Quốc hội Khóa XV đã có bước đột phá như vậy. Đặt cơ quan thẩm tra ở vị trí cao không chỉ là “phản biện” chính sách, hoàn thiện kỹ thuật lập pháp mà còn là cơ quan “kiến tạo” chính sách ngay từ đầu.