Tạitọa đàm: “Phát triển vị thế ngành công nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu” chiều 8.8,Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp Phạm Tuấn Anh cho biết, Việt Nam hiện cókhoảng 5.000 doanh nghiệp chế biến tham gia cung cấp linh kiện phụ tùng cho nhóm ngành hàng ô tô, cơ khí.
Trong đó, 70% doanh nghiệp tham gia cung cấp cho các nhà sản xuất trong nước và 8% cung cấp cho nhà xuất khẩu và 17% là tham gia cung cấp cho cả hai.
“Như vậy, có thể nói khoảng 30% doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đã tham gia chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu”, ông Phạm Tuấn Anh nói.
Theo từng ngành hàng, trong ngành dệt may, da giày: 64% doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ cung cấp cho thị trường trong nước (trong đó 3% cung cấp cho doanh nghiệp FDI), 9% xuất khẩu, và 27% cung cấp cho cả hai thị trường.
Trong ngành cao su, nhựa, hoá chất, số doanh nghiệp cung cấp cho trường trong nước chiếm 52% và hoàn toàn cho xuất khẩu là 4%. 44% còn lại cung cấp cho cả hai thị trường.
Điện tử có 44% doanh nghiệp cung cấp cho thị trường trong nước (trong đó 22% cung cấp hoàn toàn cho FDI), 16% cung cấp cho thị trường xuất khẩu, và 40% số doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của ngành cung cấp cho cả thị trường trong nước và xuất khẩu.
Ngành cơ khí, ô tô: 83% doanh nghiệp hoàn toàn cung cấp cho thị trường nội địa, chỉ có 3% doanh nghiệp có doanh thu hoàn toàn từ xuất khẩu, và 14% doanh nghiệp có doanh thu từ cả hai thị trường.
Theo Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp Phạm Tuấn Anh, mối liên kết giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa Việt Nam hiện còn lỏng lẻo, nguyên nhân chính là do nội lực của ngành công nghiệp còn hạn chế.
Thực tế Việt Nam có ngành công nghiệp phát triển sau các nước khu vực 2 - 3 thế hệ. Dung lượng thị trường nhỏ chưa đảm bảo quy mô công suất đối với sản phẩm công nghiệp để cạnh tranh về giá với thị trường khác.
Bên cạnh đó, dư địa can thiệp bằng chính sách vào phát triển công nghiệp không còn nhiều do phải tuân thủ các cam kết quốc tế, trong khi nguồn lực xã hội chưa tập trung nhiều vào đầu tư sản xuất
Ngoài ra, tập quán kinh doanh của các doanh nghiệp toàn cầu thường sử dụng các doanh nghiệp đã từng cung ứng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi sản xuất của họ hoặc các doanh nghiệp cùng quốc tịch, ít tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc tham gia chuỗi giá trị của các tập đoàn đa quốc gia.
Về góc độ từ phía doanh nghiệp và ngành, ông Phạm Tuấn Anh cho rằng, hiện Việt Nam chưa có doanh nghiệp đóng vai trò dẫn sắt mang tính lan tỏa trong ngành công nghiệp.
Trình độ doanh nghiệp và chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế. Công tác R&D (nghiên cứu và phát triển), phát triển sản phẩm mới chưa được quan tâm và thiếu nguồn vốn đầu tư.
Về công tác quản lý nhà nước, việc ban hành và bố trí các nguồn lực triển khai các chính sách hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ còn chưa hiểu quả do mâu thuẫn chồng chéo của các luật ngành khác.
Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp cho biết, thời gian tới phát triển nội lực ngành công nghiệp là ưu tiên hàng đầu của Đảng, Chính phủ với các định hướng, giải pháp mang tính dài hạn.
Trong đó, sẽ tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với khu vực FDI và thị trường toàn cầu nhằm tận dụng tốt cơ hội từ các hiệp định tự do thương mại, từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm đưa doanh nghiệp công nghiệp trong nước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.