Về một số vấn đề liên quan đến sự phát triển bền vững đất nước

GS. TSKH Nguyễn Ngọc Trân*

Mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 và 2045 đã được Đảng đề ra để cả nước cùng suy nghĩ và phấn đấu để đạt. Nhằm chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ XIV, một số văn kiện Đại hội đang được tích cực dự thảo. Bài viết này góp một số ý có liên quan đến sự phát triển bền vững đất nước trong những thập niên tới.

1. Một công đoạn cần thiết cho mọi hoạch định tương lai

Sau gần 50 năm thống nhất đất nước và 40 năm Đổi Mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã trải qua một chặng đường từ thiếu thốn khó khăn, bị chiến tranh tàn phá nặng nề đến những thành tựu nhìn chung khá toàn diện, nhân dân trong nước nức lòng tham gia đóng góp, được cộng đồng thế giới xem như là một hình mẫu phát triển thành công của một nước đang phát triển.

Đọc lại các văn kiện các kỳ Đại hội từ năm 1991 để thấy đượcchưa được, đánh giá đúng hiện trạng, làm rõ nguyên nhân của các tồn tại bất cập mà nếu không có, đất nước đã còn tiến xa hơn nữa, do vậy là một công đoạn không thể thiếu và cần làm tốt, cơ sở cho mọi dự phóng tương lai.

Đánh giá đúng là đánh giá hiện trạng toàn diện, khoa họckhách quan. Làm rõ nguyên nhân, đặc biệt của các tồn tại và bất cập đã từ nhiều năm chưa khắc phục được, là tìm đầy đủ đi đến cội nguồn của nguyên nhân.

Trên bình diện cả nước, mặc dù đổi mới thể chế đã được nghị quyết là một trong ba mũi đột phá chiến lược từ Đại hội XI năm 2011, sự liên kết phối hợp giữa các địa phương, các vùng, giữa các ngành và với các địa phương vẫn còn không ít khúc mắc. Điều này chẳng những hạn chế phát huy sức mạnh tổng hợp của các vùng, của cả nước, mà có lúc, có nơi còn tạo ra sự cạnh tranh cản trở nhau, kềm hãm sự phát triển của nhau và của đất nước.

Tình trạng ngăn cách, còn nhiều chồng chéo, thiếu phối hợp giữa các Bộ ngành vẫn còn là một tồn tại chưa khắc phục được như mong đợi. Rất nhiều thời gian, năng lượng và nguồn lực đã bị lãng phí bắt nguồn từ đó.

Từ nhiều năm rồi, nhiều thành phố lớn, trước nhất là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, ra sức chống ngập, nhưng vẫn chưa khắc phục được; đỉnh triều ở trạm thủy văn Phú An liên tục lập mốc mới. Biến đổi khí hậu nước biển dâng không phải là tất cả nguyên nhân. Sụt lún, một nguyên nhân trực tiếp, dường như chưa được xem xét một cách hệ thống, đầy đủ và thấu đáo; các nguyên nhân, trực tiếp và gián tiếp, chưa được liệt kê, với mức độ nghiêm trọng được đánh giá.

Bắt đầu từ năm 2009, thu nhập bình quân đầu người ở ĐBSCL liên tục tụt giảm so với bình quân cả nước cho tới nay chưa được khắc phục và có xu hướng gia tăng.

Một trong hai nguyên nhân chính là đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) vẫn còn là vùng trũng về giáo dục và đào tạo. Nguyên nhân thứ hai là hạ tầng cơ sở giao thông vận tải ở đồng bằng không đủ sức chuyển tải lượng hàng hóa nông lâm thủy hải sản mà đồng bằng làm ra và còn có thể làm ra, mặc dù nguồn nhân lực và hạ tầng cơ sở giao thông là hai mũi đột phá chiến lược mà Đại hội Đảng lần thứ XI năm 2011 đã quyết nghị.

Mấy ví dụ dẫn chứng trên đây cho thấy, đánh giá đúng hiện trạng, làm rõ nguyên nhân của các yếu kém bất cập vẫn còn là một nhiệm vụ cần được triển khai tích cực và tốt hơn. Làm tốt nhiệm vụ này chúng ta còn tích lũy được những tri thức từ thực tiễn về quản lý đất nước trong bối cảnh quốc tế nhiều biến động và bất định.

2. Biến động và bất định trong bức tranh toàn cầu hiện nay và sắp tới

Một hình ảnh mang nhiều ý nghĩa đã được đưa lên khi Việt Nam chính thức được kết nạp là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2006, ví “nền kinh tế nước ta như con thuyền, trước chỉ đi trong sông, giờ đây ra biển cả”.

Biển cả cách đây gần 20 năm khi chúng ta gia nhập WTO, mặc dù không ít sóng gió, là khá yên bình so với biển cả hiện nay.

Biến đổi khí hậu, nước biển dâng từ sự ấm lên của khí hậu toàn cầu, diễn ra khó lường, tàn phá ngày càng khốc liệt khắp các châu lục, nắng hạn kéo dài nối tiếp bão táp cuồng phong.

Đại dịch Covid-19 và những biến thể liên tiếp của virus, không chỉ giết hại ngót 15 triệu người trong khoảng thời gian hai năm, đã thay đổi sâu sắc thế giới, trên các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, tập quán người dân trong sinh hoạt, tiêu dùng tại tất cả các nước không có loại trừ.

Thu nhập của người dân ở các đô thị bị đe dọa và bấp bênh hơn bao giờ. Cách ly xã hội, một nhà máy, một doanh nghiệp ngừng hoạt động là hàng trăm, hàng nghìn người, thậm chí nhiều hơn nữa, trong một thời gian ngắn bị ảnh hưởng: giảm thu nhập, mất công ăn việc làm, thất nghiệp, kéo theo sức mua giảm, hàng hóa ế ẩm… Phải sống tiết kiệm hơn là một thay đổi nhận thức khá rõ trong xã hội.

Sức lan truyền của đại dịch được nhân lên với sự giao thương và đi lại thuận tiện, nhanh chóng. Ngăn chặn sự lan truyền sẽ ảnh hưởng ngay đến kinh tế đối ngoại, đến sự đi lại của hàng triệu người mỗi ngày trên thế giới và từ đó đến ngành kinh tế hàng không, đến du lịch.

Toàn cầu hóa kinh tế đã khuếch đại xuyên biên giới các tác hại của đại dịch bởi lẽ nó đã tạo ra một sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Chỉ cần tắc nghẽn ở một khâu cung ứng là ảnh hưởng đến sản xuất của nhiều nền kinh tế có liên quan. Ngược lại, Covid - 19 đã làm bộc lộ tính dễ bị tổn thương của toàn cầu hóa kinh tế, đồng thời sự mong manh của các nền kinh tế trên thế giới.

Các tác động dây chuyền này cứ thế diễn ra không loại trừ nước nào, bất luận đã hay đang phát triển, bất luận ở châu lục nào, càng khiến sự phân hóa giàu nghèo giữa các quốc gia và trong lòng mỗi quốc gia càng xoạc ra, sâu sắc thêm qua đại dịch.

Các thách thức nói trên loài người đã từng trải qua, như dịch cúm Tây Ban Nha ở đầu thế kỷ XX. Cái mới là lần này chúng diễn ra hầu như cùng một lúc, tác động tổng hợpliên hoàn lên nhau khiến cho thiệt hại là đa diện, và khó lường.

Biến động và bất định là đặc điểm của bối cảnh thế giới hiện nay mà nhân loại sẽ phải chung sống trong nhiều năm sắp tới.

Quốc gia nào nắm bắt được đặc điểm, tăng cường năng lực dự báo và tiên liệu các biện pháp ứng phó, không chỉ bị động mà còn biết biến thách thức thành cơ hội, quốc gia đó sẽ tạo ra cho mình một lợi thế tương đối trong phát triển.

Cũng cần phải nói thêm rằng, không phải tất cả đều là bất định. Biến đổi khí hậu nước biển dâng, sự sụt lúnsạt lở bờ biển, bờ sông,sự khan hiếm nước ngọt, sự phân hóa giàu nghèo trên phạm vi toàn cầu là những xu hướng được xác định. Đối với Việt Nam, nguồn nước và trầm tích sông Mekong về ĐBSCL ngày càng ít, với nhiều hệ lụy bất lợi cho đồng bằng, cũng là điều đã rõ.

Tham vọng bá quyền, thể hiện qua những cuộc xung đột địa chính trị vẫn còn đó, tiềm ẩn hay bộc phát dồn dập với sức tàn phá được nhân lên với các tiến bộ khoa học công nghệ cũng không phải là điều hoàn toàn bất định.

3. Khoa học, công nghệ và sự thay đổi sâu sắc bối cảnh thế giới

Trong 250 năm qua, bốn cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) đã nối tiếp nhau trên nền các tiến bộ khoa học và công nghệ[1].

Cuộc CMCN lần thứ nhất với sự phát minh của máy hơi nước (James Watt, 1769) mở ra thời kỳ cơ giới hóa, mạnh nhất ở các ngành dệt và in, giao thông vận tải đường sắt và đường thủy. Việc chinh phục các vùng đất mới, các thuộc địa mới được đẩy mạnh. Sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp được công nghiệp hóa. Thương mại và dịch vụ nhờ đó phát triển nhanh. Nhờ công nghiệp in phát triển, nạn mù chữ được xóa dần. Hình thành tầng lớp tư sản công nghiệp và tầng lớp công nhân, những người lao động công nghiệp.

Cuộc CMCN lần thứ 2 ra đời với sự phát hiện dầu hỏa (1859, E.L. Drake) và phát minh điện năng (1880, T. Edison). Sản xuất hàng loạt, sản xuất dây chuyền trở thành hiện thực cùng với mô hình tổ chức sản xuất Taylor. Mặt khác, năm 1840 S. Morse phát minh bảng mã tín hiệu Morse, nhờ đó đã rút ngắn thời gian thông tin liên lạc.

Quy mô phát triển sau CMCN lần thứ 2 nhanh đến mức các cường quốc tranh nhau tìm thuộc địa để cung ứng nguyên liệu, nguồn nhân lực và tranh giành thị trường, bằng chiến tranh nếu cần, kể cả hai cuộc chiến tranh thế giới (1914-1918) và (1939-1945). Giai cấp công nhân được tổ chức để đấu tranh chống bóc lột và bảo vệ quyền lợi của mình. Cương lĩnh của Đảng Cộng sản chào đời rồi Cách mạng Tháng Mười bùng nổ trong bối cảnh kinh tế, xã hội toàn cầu như vậy.

Cuộc CMCN lần thứ 3 ra đời với các máy tính điện tử đầu tiên vào các năm 1947-1950. Khởi đầu nhằm vào tự động hóa quá trình sản xuất, các máy Turing (A. Turing) và số hóa thông tin trên nền của đại số Boole vượt xa mục tiêu ban đầu và mở ra một lĩnh vực khoa học mới, Tin học, khoa học xử lý tự động thông tin bằng máy tính điện tử.

Khoảng cách không gian được rút ngắn với tiến bộ công nghệ trong giao thông vận tải và truyền thông. Internet ra đời vào những năm 1980 rút ngắn khoảng cách không gian và thời gian. Phương thức làm việc online một phần thời gian trong tuần trở nên ngày càng phổ biến.

Thương mại toàn cầu phát triển. WTO được thành lập nhằm quy định về thương mại giữa các nước theo hướng toàn cầu hóa. Sở hữu trí tuệ và lao động có chuyên môn trở thành hàng hóa được quy định. Mặc dù các quy định của WTO ngày càng ràng buộc hơn cho những nước gia nhập sau, các Hiệp định Thương mại (FTA) vẫn nở rộ với những thỏa thuận ngày càng ngặt nghèo hơn cả của WTO.

Cuộc CMCN lần thứ 3 xuất phát từ tin họcsố hóa thông tin. Tầm tác động của nó vượt xa lĩnh vực công nghiệp. Vì vậy nó còn được gọi là cuộc cách mạng tin học hay cách mạng số.

Khoảng 40 năm sau, cuộc CMCN lần thứ tư ra đời, “gối đầu” lên cuộc CMCN lần thứ 3 (vẫn đang tiếp diễn) với internet đám mây, internet kết nối vạn vậtđiện thoại thông minh. CMCN lần thứ 4 song hành với CMCN lần thứ 3, và đối tượng của nó là mọi hệ thống điều khiển đối thoạiđược. Vì lẽ này, nó còn được gọi là cuộc cách mạng điều khiển (cybernetic).

Logistic như một ngành kinh tế, ban đầu là bản lề giữa KV2 công nghiệp, và KV3 thương mại dịch vụ, và giữa hai lĩnh vực sản xuất và thị trường, manh nha vào năm 1950, phát triển nhanh chóng khi trở thành một bộ môn khoa học về quản lý trên nền cybernetic. Hoạt động của nó thu hẹp khoảng cách giữa KV2 và KV3, và hai lĩnh vực sản xuất và thị trường[2].

CMCN lần thứ 4 tác động to lớn cả về chiều rộng cả về chiều sâu. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) 2016 cho rằng “nó đã thay đổi cách chúng ta sống, làm việc và quan hệ với mọi người[3]”. Không chỉ có vậy, với CMCN lần thứ 4, các bài toán như bài toán phát triển bền vững, bài toán quy hoạch lãnh thổ chẳng hạn được tiếp cận toàn diện, hệ thống hơn, không còn giới hạn trong một lĩnh vực. Các giải pháp hơn kém nhau ở cách tiếp cận “xuyên lĩnh vực” và sử dụng các “công nghệ tích hợp”.

Với bốn cuộc CMCN mà mình đã tạo ra, đáng lý ra loài người có thể có cuộc sống ấm no, yên bình, hài hòa giữa lao động và nghỉ ngơi, kiến thức không ngừng được mở rộng, được hưởng thụ những tinh hoa văn hóa của nhân loại, trong công bằng và tiến bộ xã hội, trong hòa bình và hợp tác giữa các quốc gia.

Rất tiếc các thành tựu khoa học và công nghệ cũng đã được tạo ra và sử dụng không theo hướng đó mà để khai thác, cải tạo thiên nhiên ngày càng quy mô, đôi khi bất chấp quy luật tự nhiên và sức chịu đựng của môi trường.

Sự cạnh tranh vì lợi nhuận trước hết và trên hết được đẩy cao lên mức chưa từng thấy. Các cường quốc tích cực đầu tư và khai thác khoa học và công nghệ cho các tham vọng kinh tế, bá quyền chi phối thế giới của mình.

Thông tin trở thành nguyên liệu cho sản xuất, kinh doanh, thông tin cũng là hàng hóa. Khoảng cách số, khoảng cách giữa những “người nối mạng” và những “người không nối mạng” thêm vào sự phân cách giàu nghèo càng phân cực thế giới.

Thông tin còn được sản sinh ra bởi trí tuệ nhân tạo (AI), đặt loài người trước những vấn đề chưa có tiền lệ và cần được quản lý là một cảnh báo về những vực thẳm đang chờ.

4. Về mô hình tăng trưởng

4.1. Cơ cấu của mô hình tăng trưởng

Tăng trưởng kinh tế, tuy chưa phải là phát triển, nhưng là yếu tố cần cho phát triển.

Tuy chưa rõ chính xác nguồn gốc nhưng ở châu Á từ thế kỷ XVII đã lưu truyền câu “phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng” nói lên nhận thức về vị trí và tầm quan trọng của nông nghiệp, của chế biến chế tạo, của thị trường và của tri thức vào thời điểm đó.

Năm 1947 Colin Clark đã thiết lập một lý thuyết để đo lường tiến bộ kinh tế, theo đó nền kinh tế gồm ba khu vực, khu vực một (KV1) cho nông nghiệp, khu vực hai (KV2) cho công nghiệp, và khu vực ba (KV3) cho dịch vụ. Lý thuyết này được Liên Hợp Quốc chấp nhận, đưa vào sử dụng năm 1948. Yếu tố Trí ẩn trong ba KV.

Từ đó tăng trưởng kinh tế được đo bằng tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP, PIB) trong ba khu vực khai thác tài nguyên (KV1), công nghiệp và xây dựng (KV2) và thương mại, dịch vụ (KV3) và phân ra hai lĩnh vực sản xuấtthị trường.

Hoạt động kinh tế cho thấy KV trước cung cấp đầu vào cho các KV sau. Ngược lại, các KV sau là sức hút và động lực cho các KV trước phát triển. Nếu KV3 chỉ là “phân phối lưu thông” thì sẽ thiếu sức hút và động lực cho hai KV1 và KV2.

Hiện nay nhiều ý kiến cho rằng, còn cần xem xét bổ sung vào cơ cấu của tổng sản phẩm quốc nội khu vực thứ tư (KV4) tách ra từ KV3 và đi xuyên ngang, thậm chí xóa nhòa ranh giới giữa các khu vực hiện có, như đang diễn ra với hai khu vực KV2 và KV3 và hai lĩnh vực sản xuất và thị trường thông qua hoạt động logistic[4]. KV4 bao gồm các hoạt động nhằm cung cấp các dịch vụ rất tinh vi, sử dụng công nghệ thông tin, áp dụng các kết quả của toán học. Tư vấn rút ngắn quá trình nghiên cứu - phát triển - thị trường, logistic, đổi mới sáng tạo, AI là những hoạt động mà kết quả được tính vào KV4.

KV4 kén chọn một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tiếp cận và đề xuất cách giải quyết các bài toán của ba khu vực khác. Để làm được công việc này, nguồn nhân lực thích hợp cần được đào tạo.

Trong 14 năm gần đây, các chỉ số của Việt Nam về phát triển con người (Human Development Index, HDI), chỉ số đổi mới sáng tạo (Global Innovation Index, GII) luôn cao hơn so với mức độ phát triển. Đó là vì Việt Nam luôn xem Con Người vừa là động lực, nguồn lực, vừa là mục tiêu của phát triển[5]. Đặc biệt, theo Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu Global Innovation Index 2024 Việt Nam có 3 chỉ số đứng đầu thế giới là nhập khẩu công nghệ cao, xuất khẩu công nghệ caoxuất khẩu hàng hóa sáng tạo. Có ba chỉ số đưa Việt Nam vào nhóm 10 quốc gia dẫn đầu thế giới là tốc độ tăng năng suất lao động(hạng 3); số lượng ứng dụng điện thoại thông minh được tạo ra (hạng 7); và phần chi nghiên cứu và phát triển do doanh nghiệp trang trải/tổng chi nghiên cứu và phát triển(hạng 9).

Đây là những kết quả rất khích lệ và cần được tiếp tục để “trí” thể hiện qua KV4 của nền kinh tế đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và phát triển của Việt Nam.

4.2. Ba vấn đề về mô hình tăng trưởng của Việt Nam. Đó là:

(1) Định lượng nông, công, thương, trí trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam nên như thế nào trong bối cảnh thế giới hiện nay để hạn chế ở mức thấp nhất tác động tiêu cực của biến động và bất định đến tăng trưởng kinh tế trong khi độ mở của nền kinh tế Việt Nam khá cao? Đây là một bài toán mang tính hệ thống cần mô phỏng với những tham số thể hiện sự ổn định, sức chịu đựng, và thế mạnh của Việt Nam.

(2) Việc xác định mô hình tăng trưởng với các cơ chế chính sách tương ứng còn có ý nghĩa hệ trọng để Việt Nam vượt qua được bẫy thu nhập trung bình, gia nhập vào nhóm các nước có thu nhập cao, mục tiêu kinh tế mà Việt Nam đặt ra cho mình vào năm 2045.

Cần nhớ rằng, các ngưỡng phân định nhóm thu nhập trung bình và nhóm thu nhập cao là di động qua các năm. Một tính toán dựa trên ngoại suy đến năm 2030 cho chúng ta kết quả sau đây[6]

Ngưỡng TNTB thấp đạt 5304 < GNI_ng/n VN đạt 5387 < Ngưỡng TNTB cao đạt 14996

(US$)

Bất đẳng thức này chỉ để tham khảo vì ngoại suy cho một thời gian dài không bảo đảm sát với thực tế, và nhất là không tính đến những đổi mới về cơ chế chính sách, quyết tâmvươn lên của cả nước vốn là đặc trưng của dân tộc. Nó chỉ nhắc chúng ta rằng, quãng đường sắp tới cần có sự nỗ lực vượt bậc thì Việt Nam mới gia nhập nhóm các nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045.

(3) Sau cùng, với đường lối Đổi mới, thị trường không phải là một phạm trù kinh tế của riêng chủ nghĩa tư bản nữa, và Việt Nam từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện ra sao, ở khâu nào? ở khâu xác định mô hình tăng trưởng hay ở khâu phân phối lại lợi nhuận làm ra của xã hội, theo phương châm “không để ai tụt lại phía sau, người dân là trung tâm vừa là động lực vừa là mục tiêu của phát triển”? Giải đáp thành công câu hỏi sẽ là một đóng góp quan trọng vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, hiểu là một phủ định biện chứng của chủ nghĩa tư bản, một hình thái xã hội cao hơn, nhân văn và nhân bản hơn.

5. Về công tác quy hoạch

5.1. Tăng trưởng kinh tế đạt kết quả như thế nào tùy thuộc vào quy hoạch tổng thể, vào quy hoạch ngành trên phạm vi cả nước, và quy hoạch các vùng sinh thái - kinh tế

Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quy hoạch được Luật Quy hoạch quy định là “Bảo đảm sự tuân thủ, tính liên tục, kế thừa, ổn định, thứ bậc trong hệ thống quy hoạch quốc gia”.

Trong hệ thống quy hoạch quốc gia, Luật quy định quy hoạch tổng thể quốc gia(QHTTQG) nằm ở vị trí cao nhất của hệ thống và là cơ sở để lập quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn trên cả nước. Luật còn quy định “quy hoạch vùng phải phù hợp với QHTTQG và các quy hoạch khác cấp cao hơn”.

Để đảm bảo vừa sự thống nhất vừa sát với thực tế ở cơ sở, cần có sự đối thoại định kỳ và đột xuất hai chiều trên xuống và dưới lên[7], càng cần thiết trong bối cảnh biến động và bất định hiện nay.

5.2.Quy hoạch tích hợp đa ngànhlà một yêu cầuđối với quy hoạch tổng thể một vùng lãnh thổ (QHVLT)

Khuyến cáo về công tác cần thiết và phức tạp này, Tổ chức Nông Lương của Liên Hợp Quốc (FAO) đã nhận xét khái quát là “một nhóm chuyên gia chuyên ngành nhưng biết tiếp cận vấn đề tổng hợp sẽ đề xuất cách giải quyết các mâu thuẫn giữa các ngành trong quy hoạch có hiệu quả hơn một tập hợp đông các vị lãnh đạo và chuyên gia nhưng mỗi người chỉ biết bảo vệ lợi ích của ngành, địa phương mình”.

Bài “Từ thực tế ĐBSCL, tiến tới một quy trình quy hoạch vùng lãnh thổ tích hợp minh bạch”[8] đã viết về công tác này và đề xuất một quy trình để góp phần tháo gỡ.

5.3. Đảm bảo tính khả thi và bền vững của các dự án đầu tư

Triển khai quy hoạch sẽ thực hiện các dự án đầu tư được ghi trong quy hoạch. Để phát triển vùng được bền vững, cần đảm bảo tính khả thi và bền vững của các dự án đầu tư này.

Trên thực tế, có không ít dự án được ghi vào quy hoạch nhưng chưa được nghiên cứu kỹ. Có dự án ghi cốt để tìm nhà đầu tư. Một số dự án đầu tư công nhiều nghìn tỷ đồng đã được triển khai, đã đi vào hoạt động từ nhiều năm nhưng đối chiếu với mục tiêu đề ra thì không hoặc chưa đạt yêu cầu. Giải thích tình trạng này, các chủ đầu tư nói rằng vì mới là “giai đoạn 1”. Nhưng hỏi dự án có bao nhiêu giai đoạn, đến khi nào hoàn thành tổng vốn đầu tư ước là bao nhiêu thì không có câu trả lời. Tuy vậy họ cho rằng họ đã căn cứ các quy định của Luật Xây dựng (2014).

Trong hai năm 2022 – 2023, nhiều tuyến đường cao tốc đã được xây dựng, một số đã đưa vào sử dụng, theo phương thức phân kỳ đầu tư mà trong giai đoạn 1 nhiều tuyến chỉ có 4 làn xe, không có làn cứu hộ, nhiều đoạn chỉ có 2 làn xe, không có dải phân cách cứng, và suốt dọc không có trạm dừng chân. Nhiều tai nạn chết người đã xảy ra. Có cao tốc đi vào hoạt động mới mấy tháng đã có đoạn hàng trăm mét bị ngập khi mưa lớn kéo dài.

Để quy hoạch được triển khai tốt, vốn đầu tư công được sử dụng có hiệu quả cao, những điều kiện cần để quyết định một dự án đầu tư có hợp phần xây dựng và trách nhiệm trong phân kỳ đầu tư cần được luật pháp quy định chặt chẽ hơn[9].

5.4. Theo dõi và đổi mới công nghệ trong quy hoạch, quy định và quy chuẩn

Theo dõi công nghệ là hết sức quan trọng trong công tác quy hoạch.

Cách đây khoảng một thập kỷ, nhìn về Ninh Thuận chỉ thấy nắng và khô cằn. Điện mặt trời đã thay đổi hoàn toàn đánh giá tiềm năng vùng đất này. Tương tự khi nói đến năng lượng cho ĐBSCL, chỉ nghĩ đến điện than mặc dù biết rằng bụi than P2,5 tai hại cho môi trường và sức khỏe người dân. Điện gió được triển khai đầu tiên ở Bạc Liêu, năng lượng tái tạo nói chung cho thấy là một phần của giải pháp thay thế.

Phải thay đổi kịp thời các quy định, quy chuẩn để sớm áp dụng các công nghệ mới đã phổ biến ở nước ngoài.

Ở ĐBSCL, nhất là ở Tây Nam sông Hậu, nơi có nhiều đồng lũ, cao trình mặt đất thấp, nên đất từ yếu đến rất yếu, vin vào quy định về suất đầu tư mà không tính sòng phẳng và đầy đủ các hạng mục, vin vào quy chuẩn chưa có để bám lấy giải pháp xây cao tốc trên mặt đất, trì hoãn việc ứng dụng những công nghệ đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới để tăng tỷ lệ các đoạn cao tốc trên cầu cạn như chính Thủ tướng Chính phủ yêu cầu[10] là những biện minh khó chấp nhận.

6. Về nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực, quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển, càng quan trọng hơn trong bối cảnh biến động và bất định.

6.1.Đặc thù của nguồn nhân lực

Trong các nguồn lực để triển khai quy hoạch, nguồn nhân lực có vị trí đặc biệt riêng có. Không như nguồn vốn và nguyên vật liệu được sử dụng là không còn, chất xám của nguồn nhân lực sau sử dụng được tích lũy và giàu thêm.

Thế giới càng hội nhập đi đôi với cạnh tranh thì nguồn nhân lựcđã qua đào tạo, có tay nghề và trình độ càng quan trọng, vì nó là thành tố của sức cạnh tranh quốc gia, là động lực của sức sáng tạo quốc gia, và vì lẽ đó các tài năng được săn đón, chào mời và tranh giành.

Diễn đàn Kinh tế thế giới đánh giá và xếp hạng nguồn nhân lực như là hợp phần của chỉ số cạnh tranh toàn cầu (Global Competitivity Index, GCI)[11]. Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) xem nó là hợp phần của chỉ số sáng tạo toàn cầu (GII)[12]. Từ năm 2013, Viện châu Âu về quản trị kinh doanh (INSEAD) đánh giá sự thu hút nhân tài của các nước thông qua chỉ số cạnh tranh tài năng toàn cầu (Global Talent Competitivity Index, GTCI)[13].

Trong các báo cáo này, các chỉ số trên đây của Việt Nam được đánh giá. Rất cần có quyết sách để chúng tốt hơn[14].

Cần nhấn mạnh thêm là cùng với hạ tầng cơ sở giao thông, nguồn nhân lực đã qua đào tạo, có tay nghề và trình độ là một yếu tố để các nhà đầu tư nước ngoài quyết định đầu tư FDI vào một nước, một địa phương[15].

picture1-8525-9935.png
Hình 1

Hình 1 thể hiện đồ thị vốn FDI đăng ký vào Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ, vào Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, và xu hướng tuyến tính trong 10 năm (2010 – 2019) và trong 5 năm (2015-2019).

Chúng ta không quên một tiềm lực tri thức người Việt Nam hoặc gốc Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài. Khoảng cách không gian không còn là một cản trở họ cộng tác với trong nước. Trên thực tế đã có không ít cộng tác trong - ngoài nước. Vấn đề là xác lập được đối tác và có chính sách để sự cộng tác phục vụ tích cực hơn nữa sự phát triển của đất nước.

6.2. Đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh hiện nay

Nói tới nguồn nhân lực là trước tiên nói tới đào tạo. Đào tạo các ngành nghề gì trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển ngày càng nhanh, vừa để đáp ứng thị trường lao động vừa tạo dựng cho đất nước một nền tảng khoa học cơ bản cho phép tiếp cận được những phát minh mới nhất trên thế giới?

Để trả lời câu hỏi này, cần “nhúng” công tác này vào môi trường của cuộc CMCN lần thứ tư mà đặc trưng là sự tiếp cận tổng hợp, sựxóa mờ ranh giới giữa các khoa học, sự tích hợp các công nghệ, dẫn đến những đổi thay lớn và nhanh chưa từng thấy, và môi trường hội nhập quốc tế mà đặc trưng là hợp tác đi đôi với cạnh tranh, là sự di chuyển lao độngsự giành giật tài năng.

Theo chúng tôi, nội hàm và yêu cầu cụ thể của “đổi mới giáo dục và đào tạo cơ bản và toàn diện” để đất nước đồng hành cùng cuộc CMCN lần thứ 4 là bên cạnh lòng yêu nước, cốt lõi là đào tạo con người làm chủ, năng động, có khả năng thích ứng, sáng tạo, có tư duy độc lập.

Đào tạo ra những con người như thế, còn phải biết sử dụng, phát huygìn giữ đi đôi với thu hút tài năng để nguồn nhân lực của đất nước ngày càng mạnh, đông về số lượng, cao về chất lượng. Đây là những vấn đề thuộc lĩnh vực chính sách, chiến lược của Nhà nước mà các quốc gia đều chăm lo[16].

picture2-6623-3259-6904-6216.png
Hình 2.

7. Đôi lời kết

Bối cảnh thế giới hiện nay là chưa có tiền lệ. Hơn bao giờ, loài người cần điều chỉnh hành vi của mình đối với Thiên nhiênĐồng loại. Hơn bao giờ, các quốc gia cần ôn lại những bài học vì sao và từ đâu đã bùng nổ hai cuộc Thế chiến, để dập tắt mầm mống của cuộc Thế chiến tiếp theo, hủy diệt hơn nhiều, khi còn kịp. Hơn bao giờ, sự hình thành một trật tự kinh tế thế giới công bằng và nhân văn hơn, hợp tác để cùng phát triển bền vững, vì hòa bình, hạnh phúc và thịnh vượng của nhân loại là khát vọng chính đáng và nóng bỏng của nhân dân thế giới.

Tôi tin ở bản lĩnh của dân tộc và trí tuệ Việt Nam, với sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng, sẽ lèo lái con tàu Việt Nam không bị sóng gió của biển cả dồi dập và sẽ xây dựng thành công “một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”, như Bác Hồ đã viết trong Di chúc của Người.

* GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học kỹ thuật nhà nước, Chủ nhiệm Chương trình khoa học cấp nhà nước Điều tra cơ bản tổng hợp Đồng bằng sông Cửu Long (1983-1990), nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Đại biểu Quốc Hội Khóa IX, X, XI

[1] Phần này sử dụng nhiều ý trong bài viết “Nhìn lại các cuộc Cách mạng công nghiệp. Quan hệ với giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học”, trong sách Những hòn đá nhỏ vì sự phát triển bền vững, Q.2, Đồng bằng sông Cửu Long, Nguyễn Ngọc Trân, NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2023, ISBN 978-604-479-309-2, t. 483-494.

[2] Nguyễn Ngọc Trân, 2024, https://giaoducthoidai.vn/logistic-den-tu-dau-di-den-dau-post679794.html

[3] Klaus Schwab, 2016, The Fourth Industrial Revolution, World Economic Forum.

[4] Có ý kiến không ngần ngại cho rằng “Ngày nay nghĩ đơn giản về một chính sách công nghiệp nhắm vào xây dựng các nhà máy là nhìn vào hiện thực sản xuất với cặp kính của quá khứ. Phân biệt kinh tế giữa công nghiệp và dịch vụ ngày nay không còn ý nghĩa nữa, là không nhìn trực diện thực tế logistic”. Tuy nhiên ý kiến này được nhiều chuyên gia cho là chưa đủ cơ sở. (A. Rouquet, 2022, “Les États les plus en pointe sur le plan industriel concilient unestratégie industrielle et logistique forte (Các quốc gia tiên tiến nhất về công nghiệp kết hợp một chiến lược công nghiệp và logistic mạnh)”, Le Monde, 29.1.2022.

[5] Phát biểu trực tuyến của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại lễ công bố Báo cáo chỉ số GII năm 2024 ngày 26/9/2024.

[6] Nguyễn Ngọc Trân, 2022, CẦN MỘT SỰ NỖ LỰC VƯỢT BẬC | Báo Đại biểu Nhân dân (daibieunhandan.vn)

[7] Sách Những hòn đá nhỏ vì sự phát triển bền vững, Q. 2, Đồng bằng sông Cửu Long, Nguyễn Ngọc Trân, NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2023, ISBN 978-604-479-309-2, Phần IV, Quy hoạch quốc gia và quy hoạch vùng, trang 339-469.

[8] Tài liệu đã dẫn trên đây, trang 401-409

[9] https://thesaigontimes.vn/quyet-dinh-va-phan-ky-cac-du-an-dau-tu-cong-co-hop-phan-xay-dung/

[10] Từ ý kiến chỉ đạo đến chỉ thị, những lý do băn khoăn - Nhịp sống kinh tế Việt Nam & Thế giới (vneconomy.vn)

[11] (a) Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum, WEF) công bố hàng năm chỉ số cạnh tranh toàn cầu, GCI, (Global Competitiveness Index) của khoảng 140 nền kinh tế trên thế giới. Số liệu có từ năm 2006.

[12] Global Innovation Index, GII, do Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) kết hợp với Đại học Cornell và Học viện Insead xác lập và công bố hàng năm từ năm 2011.

[13] The Global Talent Competitiveness Index (GTCI) Talent Attraction and International Mobility, 2015-16, Bruno Lanvin and Paul Evans, Editors.

[14] Nguyễn Ngọc Trân, 2016, Nguồn nhân lực - Hợp phần của cạnh tranh và sáng tạo, đối tượng cạnh tranh toàn cầu - Báo Đại biểu Nhân dân (daibieunhandan.vn)

[15] Nguyễn Ngọc Trân, 2020, Một tiếp cận phân tích 32 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào Việt Nam, trong sách Những hòn đá nhỏ vì sự phát triển bền vững, Q. 2, Đồng bằng sông Cửu Long, Nguyễn Ngọc Trân, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2023, ISBN 978-604-479-309-2, trang 267-278.

[16] Tài liệu đã dẫn ở phụ chú 13.

Diễn đàn Quốc hội

Quốc hội thảo luận về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam
Diễn đàn Quốc hội

Sẽ tạo bước đột phá trong phát triển hạ tầng giao thông

Thảo luận tại Hội trường về chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, các đại biểu Quốc hội nhất trí với sự cần thiết đầu tư dự án để thể chế hóa chủ trương của Đảng, tạo bước đột phá trong phát triển, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng giao thông. Đồng thời, tin tưởng, với sự huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, dự án sẽ sớm được hiện thực hoá thành công, phát huy hiệu quả, đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước cả trước mắt và tương lai lâu dài.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh điều hành phiên họp
Quốc hội và Cử tri

Nhanh chóng giải quyết khó khăn về đời sống nhà giáo

Cho ý kiến về dự thảo Luật Nhà giáo, nhiều đại biểu cho rằng, việc quy định tiền lương nhà giáo ở cơ sở giáo dục công lập được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp sẽ giải quyết được những khó khăn về đời sống của nhà giáo. Đồng thời, khuyến khích thu hút nguồn nhân lực và những người giỏi tham gia vào ngành sư phạm nhiều hơn, giúp ngành giáo dục ngày càng bảo đảm về số lượng và tốt về chất lượng.

ĐBQH Đào Chí Nghĩa (Cần Thơ)
Diễn đàn Quốc hội

Thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới

Từ thực tiễn nắm bắt các ý kiến, kiến nghị của cử tri và hoạt động giám sát tại địa phương, cơ sở, tham gia thảo luận tại Hội trường về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tại Kỳ họp thứ Tám, Quốc hội Khóa XV, nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị, bên cạnh việc ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, thì Chính phủ cần thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới, có chính sách cụ thể phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, kinh tế số, kinh tế chia sẻ, chuyển đổi xanh… Đây là những động lực quan trọng để đưa đất nước vững vàng tiến bước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan trả lời chất vấn
Diễn đàn Quốc hội

Có giải pháp chấn chỉnh kịp thời các vi phạm

Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội (ĐBQH) về quản lý thực phẩm chức năng tại Kỳ họp thứ Tám, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, vướng mắc nhất hiện nay là những vấn đề liên quan đến quảng cáo trên mạng internet và mạng xã hội. Trong đó, có những trang mạng đặt tại nước ngoài nên rất khó xử lý.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên thảo luận
Diễn đàn Quốc hội

Bảo đảm điều kiện tiếp cận, sử dụng đất và nguồn lực khác công bằng, hiệu quả

Với những hạn chế, khó khăn, vướng mắc đã được nhận diện, Đoàn giám sát của Quốc hội về "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến hết năm 2023" đề nghị, Chính phủ tiếp tục rà soát, hoàn thiện các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành bảo đảm thực sự khắc phục tồn tại, hạn chế đã chỉ ra, bao gồm cả các văn bản mới ban hành, bảo đảm điều kiện tiếp cận, sử dụng đất và các nguồn lực khác công bằng, công khai, hiệu quả.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải
Diễn đàn Quốc hội

Giao Chính phủ hướng dẫn mức hỗ trợ kinh phí của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản

Theo dự thảo Luật Địa chất và khoáng sản, căn cứ vào tình hình thực tiễn, HĐND cấp tỉnh quyết định mức hỗ trợ kinh phí của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản để đầu tư nâng cấp, duy tu, xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình bảo vệ môi trường trên địa bàn. Tại Phiên họp thứ 39 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, một số ý kiến cho rằng, quy định này còn tùy nghi, mỗi địa phương quyết định mức hỗ trợ khác nhau. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị giao Chính phủ hướng dẫn, để có nguyên tắc xác định trình tự, thủ tục, hồ sơ, ngân sách, điều tiết ngân sách hoặc hạch toán sử dụng nguồn thu thống nhất.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh điều hành phiên họp
Quốc hội và Cử tri

Bảo đảm linh hoạt trong quản lý, điều hành và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn

Cho ý kiến về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế tại Phiên họp thứ 39, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhấn mạnh, dự thảo Luật có phạm vi tác động rộng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của người dân, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, Quỹ Bảo hiểm y tế và ngân sách nhà nước, do đó, cần rà soát kỹ lưỡng, nhất là về thủ tục hành chính để bảo đảm linh hoạt trong quản lý, điều hành và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi)
Diễn đàn Quốc hội

Cần lấy ý kiến đại biểu Quốc hội về việc có áp thuế VAT với phân bón hay không

Trên cơ sở tiếp thu các ý kiến đóng góp tại phiên thảo luận ở hội trường và quá trình làm việc giữa cơ quan thẩm tra với cơ quan chủ trì soạn thảo cho thấy, trong dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) còn một số nội dung có ý kiến khác nhau. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị, các cơ quan phối hợp xây dựng phương án cụ thể, đưa ra lấy ý kiến đại biểu Quốc hội, bảo đảm khách quan, nêu rõ căn cứ, các ưu điểm và nhược điểm của từng phương án.

Có các giải pháp đột phá biến cam kết thành hiện thực
Quốc hội và Cử tri

Có các giải pháp đột phá biến cam kết thành hiện thực

Nhìn lại phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ Tám, Quốc hội Khóa XV, ĐBQH THÁI THỊ AN CHUNG (Nghệ An) cho rằng, phiên họp diễn ra sôi nổi, ngày càng đổi mới và đi vào thực chất. Đại biểu kỳ vọng, các "tư lệnh" ngành sẽ thực hiện nghiêm túc, quyết liệt, có các giải pháp đột phá, căn cơ hơn để biến những cam kết, lời hứa trên nghị trường thành hiện thực.

toàn cảnh phiên họp
Diễn đàn Quốc hội

Có cơ chế đặc thù trong phân bổ ngân sách cho địa phương khó khăn, có tính chất phức tạp về ma túy

Để bảo đảm hiệu quả nguồn vốn thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy đến năm 2030, tại phiên thảo luận chiều 13.11, đại biểu Quốc hội đề nghị, Chính phủ cân nhắc cơ chế đặc thù trong phân bổ ngân sách cho các địa phương khó khăn, có tính chất phức tạp về ma túy và xem xét khả năng huy động thêm các nguồn lực hợp pháp khác để tham gia thực hiện chương trình.

ĐBQH Nguyễn Phương Tuấn (Kiên Giang)
Quốc hội và Cử tri

Đánh giá kỹ hiệu quả tài chính, chuẩn bị phương án, nguồn lực thực hiện

Thảo luận tại tổ về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, đa số các đại biểu Quốc hội nhất trí đầu tư Dự án, song cũng đề nghị Chính phủ cần rà soát kỹ lưỡng để đánh giá đúng thực tế hiệu quả tài chính, chuẩn bị các phương án, nguồn lực để bảo đảm thực hiện dự án hiệu quả, đúng tiến độ.

Phiên chất vấn đã thành công tốt đẹp với nhiều cam kết mạnh mẽ trong công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành
Quốc hội và Cử tri

Phiên chất vấn đã thành công tốt đẹp với nhiều cam kết mạnh mẽ trong công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành

Đánh giá về phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ Tám, các đại biểu Quốc hội cho rằng, phiên chất vấn đã thành công tốt đẹp, Chủ tịch Quốc hội điều hành chất vấn chắc chắn, linh hoạt và hiệu quả; đại biểu chất vấn sắc sảo, truyền tải nhiều nội dung đang được cử tri và Nhân dân quan tâm; các bộ trưởng, trưởng ngành đưa ra nhiều cam kết mạnh mẽ trong công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành trong lĩnh vực được giao phụ trách.

Giải trình, phản biện công khai để Nhân dân nắm rõ
Quốc hội và Cử tri

Giải trình, phản biện công khai để Nhân dân nắm rõ

Nguyễn Vân Hậu

Nội dung chất vấn đầu tiên tại Kỳ họp thứ Tám, Quốc hội Khóa XV thuộc lĩnh vực ngân hàng là 1 trong 3 nhóm vấn đề cử tri và Nhân dân quan tâm nhiều nhất. Theo dõi phiên họp được truyền hình trực tiếp, cử tri và Nhân dân quan tâm đến sự minh bạch trong giao dịch của thị trường vàng giống như minh bạch giao dịch tỷ giá ngoại tệ; giải trình, phản biện công khai để Nhân dân nắm rõ lý do vì sao Ngân hàng Nhà nước không lập sàn vàng, vì sao chỉ bán vàng mà không mua... như ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội đã chất vấn.

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan minh họa cho "sức hấp dẫn" của thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng thông qua hình ảnh một sản phẩm thuốc lá điện tử tại Phiên chất vấn
Quốc hội và Cử tri

Ngắn gọn, nhất quán, rõ quan điểm, rõ giải pháp

Công tác phòng, chống tác hại của thuốc lá, chất kích thích, cụ thể là thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng là một trong những nội dung làm nóng nghị trường ngay từ chất vấn đầu tiên đối với nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực y tế. Đây cũng là vấn đề đang được dư luận, cử tri và Nhân dân rất quan tâm, theo dõi và mong chờ câu trả lời dứt khoát: Nên cấm hay cho phép lưu hành thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng?