Giữ hồn làng qua các đạo sắc phong

Bài 1: “Báu vật” linh thiêng của cộng đồng

- Chủ Nhật, 28/08/2022, 19:38 - Chia sẻ

Đạo sắc phong được xem như “báu vật” linh thiêng của cộng đồng, được gìn giữ bảo vệ, lưu truyền qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, tình trạng ăn trộm cổ vật tại nhiều nơi thờ tự, cùng với việc bảo quản chưa khoa học trước những điều kiện khắc nghiệt của thời tiết đã khiến cho nhiều đạo sắc phong bị rách nát, hư hỏng nặng hoặc biến mất. Những năm qua tại Hà Nội, nhiều người tâm huyết vẫn ngày đêm bảo vệ đạo sắc phong, thậm chí có một số nhóm đã đi sưu tầm, bỏ tiền túi ra mua lại để trả đạo sắc phong về với đúng quê hương bản quán.

Đạo sắc phong là văn bản truyền mệnh lệnh của vua phong chức tước cho quý tộc, quan chức, khen thưởng những người có công hoặc phong thần và xếp hạng cho các vị thần được thờ trong các đình đền trong tín ngưỡng làng xã của người Việt. Bởi vậy, đạo sắc phong không chỉ chứa đựng giá trị văn hóa lịch sử mà còn là niềm tự hào của người dân địa phương.

Hiểu văn hóa lịch sử qua đạo sắc phong

Đạo sắc phong bao gồm sắc phong chức tước cho quý tộc, quan chức của các vương triều và sắc phong thần do nhà vua phong tặng cho các vị thần được thờ ở trong đình, đền, miếu, từ đường... Sắc phong ghi lại tên tuổi và công lao của một số nhân vật lịch sử kèm theo quê quán, công tích và xếp hạng. Sắc phong phản ánh hệ thống hành chính với những địa danh và đơn vị hành chính mang niên đại cụ thể. Sắc phong thể hiện vai trò tối thượng của nhà vua trong việc trị vì muôn dân và cai quản cả thế giới thần linh, kết hợp với các tín ngưỡng và đời sống tâm linh, có quan hệ mật thiết với các lễ hội dân gian và sinh hoạt văn hóa của làng, xã.

Giữ hồn làng qua các đạo sắc phong -0
Đạo sắc phong được ví như bản chứng chỉ, liên hệ tinh thần, gạch nối  giữa quá khứ, hiện tại, tương lai

Nhà văn hóa Hữu Ngọc, Chủ tịch Quỹ Thụy Ðiển - Việt Nam phát triển văn hóa, nơi có sáng kiến và tài trợ cho dự án bảo tồn sắc phong cổ cho biết: “Nghiên cứu sắc phong giúp chúng ta hiểu biết về địa lý, lịch sử, văn hóa dân gian. Sắc phong cũng thể hiện đặc trưng của thư pháp Hán Nôm và sự biến đổi qua các thời kỳ lịch sử. Ðồng thời một nét quan trọng khác là giấy sắc. Ðây là một sản phẩm đặc biệt của nghề làm giấy truyền thống đến nay hầu như đã mai một. Bảo tồn giấy sắc là một cách bảo tồn chứng tích của nghề thủ công truyền thống này”.

Đạo sắc phong là linh hồn của cơ sở thờ tự có từ khoảng thế kỷ XV (triều nhà Lê Sơ). Đạo sắc phong bản gốc, bản chính được xác định thông qua các đặc điểm, như: Con dấu đóng (màu đỏ gồm các chữ: Sắc mệnh chi bảo) của nhà Vua mang nội dung công nhận có tính pháp lý, chữ viết, hoa văn, chất liệu giấy. Bên cạnh đó, sắc phong còn thể hiện quyền lực của triều đình đối với các làng, xã. Cùng với các loại văn bản và thư tịch cổ như chiếu, chỉ, hịch, gia phả, châu bản… đạo sắc phong được xem như là một loại văn bản pháp quy chính thống của nhà nước phong kiến.

Về giá trị của sắc phong, theo giới chuyên môn đánh giá là thể hiện rõ rệt dấu ấn uy quyền của các vị vua, có tính độc bản vì đạo sắc phong nào cũng chỉ có một bản. Hơn nữa, niên đại ghi ở cuối văn bản gồm triều vua và ngày tháng ban sắc là thông tin tuyệt đối chính xác làm căn cứ để người đời sau có thể hiểu về phong cách mỹ thuật, thư thể của từng thời kỳ lịch sử.

Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Quang Khải phân tích: “Sắc phong bao giờ cũng chỉ được viết trên một mặt của tờ sắc với nội dung chỉ có khoảng hơn 100 chữ ghi về địa chỉ nơi được ban sắc phong, lý do được ban sắc, hệ thống mỹ tự ban cho Thành hoàng, đẳng cấp của Thành hoàng, niên hiệu và đóng quốc ấn. Hình thức sao chép phổ biến nhất là ghi chép trên giấy dó, giấy bản hoặc chạm khắc vào bia đá, bảng gỗ, kim loại… Việc cất giữ, bảo quản, phát huy loại tài liệu linh thiêng này mỗi nơi có những quy định riêng”.

Đạo sắc phong với người Hà Nội

Hà Nội là địa phương có nhiều di tích văn hóa lịch sử nhất cả nước, nên nơi đây cũng chứa đựng nhiều đạo sắc phong có giá trị cao. Những năm qua, UBND TP. Hà Nội đã chỉ đạo các đơn vị chuyên môn tiến hành thẩm định các đạo sắc phong tại các di tích văn hóa lịch sử để từ đó có những phương án giữ gìn, phát huy. Mới nhất vào năm 2021, UBND TP. Hà Nội đã quyết định công nhận 6 đạo sắc phong đang lưu giữ tại đình Hoàng (phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm) là tài liệu lưu trữ quý, hiếm. Trước đó, đã có 554 đạo sắc phong tại 63 cơ sở thờ tự (thuộc các quận, huyện: Long Biên, Đông Anh, Gia Lâm, Phú Xuyên, Hoài Đức) đủ điều kiện, tiêu chuẩn đã được công nhận là tài liệu lưu trữ quý, hiếm.

Giữ hồn làng qua các đạo sắc phong -0
Nghệ nhân Lại Phú Thạch - người của gia tộc họ Lại giữ bí quyết làm giấy sắc (Nguồn IT)

Với những người sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, đạo sắc phong không chỉ là một tác phẩm thư pháp Hán Nôm độc đáo, mà còn là hồn thiêng đất nước, của dân tộc. Mỗi sắc phong là một bằng chứng của cuộc sống, là gạch nối giữa hiện tại, quá khứ và tương lai. Anh Nguyễn Bình Dân- một trong những nhà nghiên cứu sắc phong đang giữ trong tay khoảng hơn trăm loại sắc phong qua các thời kỳ và triều đại khác nhau cho biết: sắc phong không chỉ ghi công những vị thần, những địa phương có công với đất nước, mà còn lưu giữ những giá trị lịch sử vô cùng quý giá, là bằng chứng sống động như một chứng chỉ, một liên hệ tinh thần. Cũng từ bộ sưu tập sắc phong có được, anh Dân đã tìm đến dòng họ Lại nổi tiếng khắp cả nước với nghề làm giấy sắc để viết sắc phong.

Tại Hà Nội, việc bảo tồn và phát huy các đạo sắc phong không chỉ làm cứ liệu lịch sử để khẳng định giá trị văn hóa lịch sử các di tích đó mà còn góp phần gìn giữ làng nghề truyền thống làm giấy sắc phong. Được biết, các đạo sắc phong lâu nay được viết trên chất liệu giấy quý vừa đẹp vừa có độ bền cao. Loại giấy này được làm tại làng Nghè (tức làng Nghĩa Đô, Bắc Từ Liêm, Hà Nội) rất quý vì nguyên liệu dùng để vẽ lên bề mặt giấy là vàng, bạc, kim nhũ và được sản xuất bằng kỹ thuật seo giấy cổ truyền đặc biệt công phu, chuyên cung cấp cho triều đình sử dụng.

Cho đến giờ, trong dân gian còn lưu truyền những câu ca đầy tự hào: “Họ Lại làm giấy sắc vua/ Làng Láng kéo cờ mở hội hùng ghê” hoặc “Tiếng đồn con gái Nghĩa Đô/ Quanh năm làm giấy cho vua được nhờ”.

Qua tìm hiểu tại dòng họ Lại, nhà thờ tổ họ Lại ở phường Nghĩa Đô, chúng tôi được biết cụ Lại Thế Bàn là nghệ nhân cuối cùng biết được bí quyết và công nghệ làm giấy Sắc đã mất năm 2003. Trước đó, cụ đã truyền nghề cho các con. Vì vậy dòng họ Lại giờ chỉ còn hai người con của cụ Lại Thế Bàn là Lại Phú Thạch và Lại Thị Hà (cháu đời thứ 23 của dòng họ) biết được bí quyết làm giấy Sắc. Những người khác trong dòng họ như ông Lại Phú Quyết (trưởng họ), Lại Phú Kỳ (Phó ban Quản lý họ) và các thành viên khác cũng chỉ nắm được những nội dung cơ bản của quy trình đó mà thôi. 

NGUYỄN THẢO - HOÀI PHƯƠNG - PHƯƠNG NGUYÊN
#