Ưu đãi cho công nghiệp hỗ trợ
Thời gian qua Bộ Công thương đã tham mưu cho Chính phủ, và chỉ đạo, tổ chức thực hiện quyết liệt nhằm nâng cao vai trò, vị thế của ngành công nghiệp hỗ trợ theo tinh thần của Nghị quyết số số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Như ban hành Quyết định số 9028/QĐ - BCT phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; tham mưu và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 111/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ; Quyết định số 68/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2016 – 2025.
Đặc biệt, Nghị định 57/2021/NĐ-CP ngày 4.6.2021 của Chính phủ đã bổ sung một số ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ có nhiều điểm mới và thuận lợi hơn so với quy định cũ. Đối tượng được hưởng lợi từ Nghị định là các doanh nghiệp có dự án đầu tư mới và đầu tư mở rộng trước năm 2015 và đã được cấp Giấy xác nhận ưu đãi sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.
Nội dung đáng chú ý nhất được các doanh nghiệp hoan nghênh là: Các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thực hiện trước ngày 1.1.2015 được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy xác nhận ưu đãi sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ sẽ được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp.
Những chính sách khuyến khích nói trên, cùng sự nỗ lực của doanh nghiệp đã mang lại những kết quả tích cực. Trước hết doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ phát triển về cả số lượng và chất lượng, cải thiện năng lực sản xuất và tham gia ngày càng sâu vào chuỗi sản xuất trong nước và toàn cầu. Đến nay, số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ trợ chiếm gần 4,5% tổng số doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, tạo, doanh thu thuần đạt hơn 900.000 tỷ đồng, đóng góp khoảng 11% tổng doanh thu toàn ngành chế biến, chế tạo...
Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp sản xuất linh kiện Việt Nam có năng lực khá tốt tại một số lĩnh vực như sản xuất khuôn mẫu các loại; linh kiện xe đạp, xe máy; linh kiện cơ khí tiêu chuẩn; dây cáp điện; linh kiện nhựa - cao su kỹ thuật; săm lốp các loại. Các sản phẩm này đã đáp ứng được nhu cầu trong nước và được xuất khẩu tới nhiều quốc gia trên thế giới.
Đồng thời, năng lực sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong nước được nâng lên, tỷ lệ nội địa hóa của một số ngành công nghiệp tại Việt Nam được cải thiện. Đối với ngành điện tử, tỷ lệ nội địa hóa các ngành điện tử gia dụng là 30 - 35% nhu cầu linh kiện; điện tử phục vụ các ngành ô tô - xe máy khoảng 40%. Đối với ngành sản xuất, lắp ráp ô tô, một số dòng xe đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao và vượt mục tiêu Chiến lược và quy hoạch công nghiệp ô tô Việt Nam đề ra, đáp ứng cơ bản thị trường nội địa (xe tải đến 7 tấn đáp ứng khoảng 70% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa trung bình 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đáp ứng khoảng 90% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa đạt tối đa đến 40%)…
Sẵn sàng nguồn lực đón sóng FDI
Làn sóng dịch chuyển sản xuất sang các nước khu vực Đông Nam Á dự kiến tiếp tục tăng thêm hơn nữa trong thời gian tới. Việt Nam vì vậy tận hưởng cơ hội lớn để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Tuy nhiên, để cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực và hình thành chuỗi cung ứng - sản xuất hoàn thiện, các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam cần sự bền bỉ và trợ lực mạnh mẽ từ chính sách hỗ trợ trong thời gian tới.
Muốn sẵn sàng đón làn sóng đầu tư FDI vào Việt Nam, đặc biệt là tiếp nhận các đơn hàng khó, doanh nghiệp cần đầu tư chiều sâu cả về quy mô, vốn, con người và công nghệ, nhằm thích ứng tính cạnh tranh cả về chất lượng và giá cả, tiến độ so với Trung Quốc và các nước trong khu vực.
Cần tập trung hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm một số doanh nghiệp Việt Nam trong các ngành công nghiệp hạ nguồn trọng điểm như ô tô, điện - điện tử, dệt may, da - giày trở thành các tập đoàn có tầm cỡ khu vực, tạo hiệu ứng lan tỏa và dẫn dắt các doanh nghiệp CNHT trong nước phát triển theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Doanh nghiệp FDI vốn có yêu cầu cao cho sản phẩm, linh kiện chính xác, yêu cầu ngoại quan cao và tiến độ khuôn mẫu, tiến độ giao hàng nhanh chóng, giá cả cạnh tranh cũng là một yếu tố quyết định trong kinh doanh.
Bên cạnh các yêu cầu về kĩ thuật, giá thành, chất lượng sản phẩm, để trở thành nhà cung cấp cho doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp cũng cần phải thiết lập hệ thống quản lý chất lượng, môi trường dựa trên tiêu chuẩn toàn cầu như ISO 9000, ISO 14001, và chứng chỉ IFTA16949 cho ngành ô tô. Đây chính là các hành trang cần thiết cho sự phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt nam thời hội nhập và dịch chuyển vùng của các hãng công nghiệp lớn hiện nay.